Search Suggest

Truyền thông đại chúng và sự biến đổi văn hóa



Cuộc sống đời thường đã gõ mạnh lên cánh cửa của khoa học nhân văn. Học sinh đăng ký học ngành văn ngày một ít đi, những người đang theo học thì lo ngay ngáy không biết sẽ xin việc như thế nào bằng những thứ mình đang học. Ở Pháp, sinh viên khoa văn luôn phải học văn song song với một ngành khác gần với thực tế hơn, dễ xin việc hơn. Sách học thuật viết thì vật vã, nhưng bao giờ cũng chỉ được xuất bản với một lượng rất nhỏ. Có phải học thuật mà những nhà nghiên cứu văn học đang theo đuổi ngày càng xa thực tế, nó và cả người theo đuổi nó dường như cần phải được bảo lãnh bởi một lực lượng khác?
Thực tế có thể nói là tàn khốc đó đặt người nghiên cứu văn học trước tình thế buộc phải nhìn nhận lại công việc của mình.. Không thể phủ nhận hướng nghiên cứu bản thể luận, tìm kiếm chiều sâu văn bản, chỉ ra những quy luật vận hành, kết cấu nội tại trong văn bản, đề cao tính thẩm mỹ, đặc trưng riêng của văn học… đã có những cống hiến quan trọng trong sự phát triển của lý luận văn học thế giới, đặc biệt là với nghiên cứu văn học Việt Nam và Trung Quốc, bởi nó giúp cho nghiên cứu văn học thoát khỏi tình trạng xã hội học dung tục. Thế nhưng ở Trung Quốc, thời kỳ này bị vượt qua rất nhanh, ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước đã chuyển sang giải cấu trúc, và hiện nay chuyển rất mạnh mẽ sang hướng nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu liên ngành. Điều này cũng là một xu hướng quan trọng ở các nước Âu Mỹ.
Trong bài viết này, tôi chọn giới thiệu công trình Phương tiện truyền thông đại chúng và sự biến đổi văn hóa của Triệu Dũng, giáo sư trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh (1), chủ yếu ứng dụng lý thuyết của trường phái Frankfurt để nghiên cứu sự biến động trong đời sống văn hóa thẩm mỹ Trung Quốc hiện đại. Tôi nghĩ cuốn sách này sẽ gợi mở cho việc nhìn nhận sự biến đổi văn hóa ở Việt Nam hôm nay, ở một bối cảnh có nhiều nét tương đồng. Đồng thời có lẽ đây cũng là một hướng đi giúp cho hoạt động nghiên cứu khoa học nhân văn, đặc biệt là nghiên cứu văn học, tiếp cận gần hơn với thực tế cuộc sống hằng ngày.

Phương tin truyn thông đi chúng và s biến đi văn hóa xut bn vào tháng 1-2010, dày 384 trang, tiếng Trung, gm 5 chương: Khái quát v văn hóa truyn thông; Vic đc, viết và thi đi s hóa; Đin thoi tr thành phương tin truyn thông th 6; Nhìn li tác phm cách mng kinh đin; Suy nghĩ v chương trình Din đàn cho mi người.


Trong chương 1, tác giả đã tiến hành giới định hai khái niệm truyền thông đại chúngvăn hóa đại chúng. Ngày nay, nhắc đến phương tiện truyền thông đại chúng tất yếu phải nhắc đến internet, điện thoại di động, máy ảnh, máy quay kỹ thuật số… Văn hóa truyền thông là hình thức văn hóa xuất hiện sau khi văn hóa đại chúng phát triển đến một giai đoạn mới, đặc trưng của nó chịu sự quy định bởi đặc trưng của bản thân phương tiện truyền thông. Có thể nói, nếu không có phương tiện truyền thông mới thì cũng không thể có văn hóa truyền thông. Chỉ có điều, phải đợi đến thời đại truyền thông kỹ thuật số chúng ta mới có lý do để bàn về văn hóa truyền thông mà thôi. Trong thời đại văn hóa truyền thông, về mặt lý thuyết, văn hóa tao nhã và văn hóa đời thường, văn hóa tinh anh và văn hóa đại chúng, tri thức phân tử (có tư tưởng riêng) và tri đạo phân tử (chỉ quan tâm thu thập tài liệu)… đều có cơ hội thể hiện bản thân mình trên vũ đài phương tiện truyền thông đại chúng. Ngoài ra, chúng ta còn có thể xem văn hóa truyền thông là một loại văn hóa hỗn tạp, không ngừng sinh thành, phát triển.
Dưới ảnh hưởng của phương tiện truyền thông, biến đổi mạnh mẽ nhất của văn hóa là chuyển từ văn hóa thẩm mỹ sang văn hóa tiêu dùng, từ tri thức phân tử sang tri đạo phân tử. Tác giả đã khái quát đặc trưng của văn hóa tiêu dùng: là sản phẩm của xã hội tiêu dùng, biến văn hóa thành hàng hóa, vận hành theo quy luật của thị trường, xóa bỏ ranh giới giữa hàng hóa và nghệ thuật, hàng hóa nghệ thuật hóa, nghệ thuật hàng hóa hóa trở thành xu hướng chủ yếu.
Sự kết hợp giữa tri thức phân tử và phương tiện truyền thông đã làm xuất hiện loại tri thức gắn với truyền hình, làm đơn giản hóa những tư tưởng sâu sắc, làm giản đơn hóa những vấn đề phức tạp. Ý niệm, tư duy, phương án chế tác đều bị hạn chế. Những tri thức gắn với truyền hình bị truyền thông hóa, thậm chí bị truyền thông vui chơi giải trí hóa. Bên cạnh truyền thông, tinh thần thời đại, trào lưu xã hội, quan niệm lợi ích… cũng góp phần tạo ra sự chuyển đổi này.
Chương 2 bàn đến văn hóa đọc viết. Cùng với sự phổ biến của sách điện tử, internet, phương thức và hành vi viết biến đổi mạnh mẽ. Trung Quốc từng trải qua thời kỳ chuyển từ viết bằng bút lông sang viết bằng bút sắt, và hiện nay là dùng máy tính. Viết sách điện tử làm thay đổi trạng thái cơ bản của sự viết, biến lao động nhọc nhằn của sự viết trước kia thành sự thoải mái, nhẹ nhàng, kéo theo sự biến đổi kỳ diệu trong tâm lý sáng tác. Tuy nhiên, dùng máy tính để viết đã làm mất dấu tích bản thảo, đồng nghĩa với việc chúng ta mất đi một con đường tiếp cận văn bản. Viết bằng máy tính thực sự đã cải biến phương thức tư duy của nhà văn: trong thời đại viết bằng máy tính, sự không ổn định, không có thứ tự, đứt đoạn, chắp vá… dường như đã chiếm ưu thế lớn trong thế giới tinh thần của nhà văn. Internet xuất hiện khiến việc thu thập tài liệu, đọc sách, phương thức sao chép cũng biến đổi rất lớn. Chúng ta không cần thiết phải đích thân chạy đến thư viện tra tư liệu, chỉ cần ngồi ở nhà, thông qua internet, là có thể tìm được. Nhưng lại cũng vì thế mà tư liệu bị biến đổi, đơn độc và thiếu sức sống. Sự thuận tiện trong sao chép cũng là một trong những nguyên nhân của việc xuất hiện nhiều hàng hóa học thuật giả mạo. Trong thời đại truyền thông kỹ thuật số, con người sống trong đại dương tri thức, và để có thể thu được càng nhanh, càng nhiều những tri thức, con người không thể không thay đổi phương thức đọc, vì thế năng lực trầm tư mặc tưởng, năng lực dung nạp, nhào nặn thông tin, nghiền ngẫm ý nghĩa bị suy giảm, kết quả là vô tình chúng ta trở thành nô lệ của thông tin.
Trong thời thông tin, cách viết thận trọng trước kia trở thành cách viết nhanh, thoải mái, thậm chí tùy tiện. Blog đã làm biến động sự viết. Trước kia, viết văn, dường như chỉ dành cho một số ít người, nhưng hiện nay, với sự xuất hiện của blog, ai cũng có thể tham gia viết, và chủ yếu là viết về đời tư, viết rất nhanh, muốn viết gì thì viết. Blog ngay khi bắt đầu đã trở nên không thuần nhất, blog chú trọng giá trị bề mặt, website chú trọng giá trị kinh doanh. Mạng sina của Trung Quốc đã mời những người nổi tiếng mở blog để thu hút lượng khách ghé thăm.
Đồng thời, phương tiện truyền thông hiện đại còn phá vỡ trạng thái đọc trong cô đơn, làm mất đi lối đọc có chiều sâu. Đọc trên mạng có thể tạo ra hiện tượng đọc giả, đọc chỉ để thu thập một thông tin, bỏ qua sự trầm tư mặc tưởng vốn không thể thiếu của sự đọc. Tài nguyên truyền thông điện tử ngày một phong phú khiến độc giả dần dần biến thành khán giả. Không còn nghi ngờ gì nữa, trong văn hóa đương đại, văn hóa lấy hình ảnh và âm thanh làm cơ sở đã chiếm lĩnh địa vị trung tâm. Tỉ lệ người đọc sách ngày một giảm. Người ta thích xem tác phẩm điện ảnh được chuyển thể hơn là đọc trực tiếp tác phẩm văn học. Vì thông qua điện ảnh, người ta dễ dàng tiếp cận với hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà năng lực nắm bắt hình tượng trong tác phẩm văn học cũng dần dần mất đi. Phương tiện truyền thông thực ra đã bồi dưỡng thái độ ghét câu chữ, bồi dưỡng năng lực đọc mà không hiểu tác phẩm văn học.
Chương 3 tập trung nói về điện thoại di động, cho thấy tin nhắn, điện thoại, email đã làm biến đổi kết cấu tình cảm của con người như thế nào. Khi xuất hiện những phương tiện truyền thông này, khoảng cách không gian và thời gian dường như không tồn tại, năng lực viết thư tay, khả năng dùng thư tay thể hiện tình cảm cũng dần dần mai một. Kiểu tin nhắn vui đùa gắn bó chặt chẽ với ca dao đương đại, phía sau nó là chủ nghĩa vui chơi giải trí của truyền thông hiện đại. Có thể xem tin nhắn là hình thức mỹ học đặc trưng của thời đại mà tính ngắn ngủi trở thành đặc điểm nổi bật. Ở Trung Quốc đã từng tổ chức một cuộc thi viết truyện ngắn bằng tin nhắn điện thoại. Cuộc thi này đã làm bùng nổ một cuộc tranh luận khá sôi nổi về hình thức văn học trong thời đại truyền thông.
Chương 4 nhìn lại vấn đề tác phẩm cách mạng kinh điển. Ở Trung Quốc rất nhiều tác phẩm điện ảnh kinh điển về thời kỳ cách mạng được quay lại trên tinh thần kéo thần tượng về gần hơn với cuộc sống hàng ngày. Hiện tượng này chứng tỏ một thực tế: công chúng ngày nay đã thay đổi. Tác phẩm cách mạng trước kia là thứ văn hóa của đại chúng chính trị, còn tác phẩm bị cải biên lại là sản phẩm của văn hóa đại chúng thương nghiệp.
Chương 5 đặt ra nhiều nghi vấn đối với chương trình Diễn đàn cho mọi người: vì sao Diễn đàn cho mọi người trước kia là truyền hình học thuật, ngày nay lại biến thành truyền hình vui chơi giải trí; vì sao tri thức phân tử lại vắng bóng trên diễn đàn truyền hình...
Truyền hình học thuật ngày nay biến thành truyền hình vui chơi giải trí. Để thu hút người xem, tính học thuật phải giảm đi, nhân cách kẻ sĩ theo quan niệm một thời bị mài mòn, học thuật và nguyên tắc trò chơi trong môi trường vui chơi giải trí bị trộn lẫn. Trong thời đại này xuất hiện kiểu minh tinh học thuật và những chuyên gia đào tạo minh tinh tinh học thuật. Học giả một khi đã trở thành minh tinh tức là đã từ bỏ sự ràng buộc của nguyên tắc học thuật, trở thành nghệ sĩ biểu diễn. Hệ quả tiếp theo là học thuật được biên tập thành câu chuyện, thành hàng hóa, khiến cho người xem coi nhẹ và dường như quên đi tinh thần học thuật chân chính, quên đi sự tôn nghiêm của học thuật. Học giả lên truyền hình phần lớn là loại học giả tổng hợp tư liệu, không có tư tưởng Đây cũng chính là một trong những lý do khiến những học giả chân chính không muốn xuất hiện trên truyền hình nữa.
Tóm lại, hiện nay, sự biến đổi của văn hóa là vô cùng rõ nét, có thể hệ thống thành một số sự biến động như sau: từ văn hóa thẩm mỹ đến văn hóa tiêu dùng, từ tri thức phân tử đến tri đạo phân tử, từ văn hóa bút mực sang văn hóa máy tính rồi đến văn hóa mạng, từ văn hóa thư tay đến văn hóa tin nhắn, từ văn hóa quần chúng cách mạng đến văn hóa đại chúng thương nghiệp rồi đến văn hóa hỗn tạp của thanh niên, từ văn hóa truyền hình học thuật đến văn hóa truyền hình vui chơi giả trí.
Không thể phủ nhận sự biến đổi văn hóa chịu ảnh hưởng lớn từ phương tiện truyền thông hiện đại, trong đó nguyên nhân sâu xa nhất là sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Văn hóa biển đổi do ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đại chúng không phải là hiện tượng cá biệt của riêng quốc gia nào, mà là hiện tượng có tính chất toàn cầu. Đối diện với sự biến đổi của văn hóa, việc bàn đến chuyện được mất là hoàn toàn bình thường. Tôi cho rằng, văn hóa là một quá trình không ngừng biến đổi, cho nên, trong quá trình đó, có thứ sẽ mất đi, có thứ sẽ xuất hiện, đâu phải chuyện lạ, không có những thể nghiệm mà ngày xưa đã có, thì chúng ta lại có những thể nghiệm mới, đó chẳng phải là một điều tốt hay sao.
Công trình Phương tiện thông tin đại chúng và sự biến đổi văn hóagiúp chúng ta nhìn thấy và lý giải các hiện tượng trong đời sống văn hóa đương đại ở Việt Nam. Trong bối cảnh văn học nước nhà, sự xuất hiện và tồn tại của văn học mạng là một thực tế mà chúng ta không thể không nghiên cứu. Số phận của văn học dưới tác động của văn hóa nghe nhìn, sự chuyển đổi trong văn hóa thẩm mỹ, sự biến động của sự đọc và sự viết dưới ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đại chúng cũng không thể không bàn đến. Việc liên kết giữa học thuật với truyền thông và mức độ hợp tác như thế nào cũng nên chú trọng (tránh trường hợp lĩnh vực nào cũng nhảy lên truyền hình phát biểu với tư cách chuyên gia, nhưng cũng tránh trường hợp khép kín, làm hạn chế khả năng quảng bá, chia sẻ tri thức). Không những thế, công trình này còn gợi mở thêm một hướng đi trong nghiên cứu văn học. Trong ảnh hưởng của đời sống đương đại, nghiên cứu văn học có lẽ nên bước song song, vừa tiếp cận theo hướng bản thể luận, tìm kiếm vẻ đẹp thẩm mỹ tiềm tàng, vừa tiếp cận theo hướng văn hóa xã hội.

_______________
           1. Triệu Dũng, người Sơn Đông, GS, TS Viện Văn học, ĐHSP Bắc Kinh, chuyên viên nghiên cứu viên của trung tâm nghiên cứu Văn nghệ học ĐHSP Bắc Kinh, trưởng phòng nghiên cứu văn nghệ học, hướng dẫn nghiên cứu sinh, hiện nay chủ yếu giảng dạy và nghiên cứu lý luận văn học, phê bình văn học, lý luận và phê bình văn hóa đại chúng. Công trình chính: Thấu thị văn hóa đại chúng(2004), Đọc và phê bình thẩm mỹ (2005), Lý luận văn học tân biên (2005), Văn nghệ học phản tư (2009), Phương tiện thông tin đại chúng và sự biến đổi văn hóa (2010).

Nguồn: Tạp chí VHNT số 323, tháng 5-2011
Tác giả: Đỗ Văn Hiểu
http://vhnt.org.vn/NewsDetails.aspx?NewID=646&cate=97


Đăng nhận xét