Search Suggest

Hỏi - đáp một số vấn đề về phương ngữ học tiếng Việt


Câu 1: Phương ngữ là gì? Phương ngữ học có những nhệm vụ nào?
-         Phương ngữ là thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ biểu hiện  của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay vớ một phương ngữ khác.
-         Nhiệm vụ của phương ngữ học:
o   Phát hiện những đồng ngữ tuyến, những vùng phương ngữ, miêu tả chúng.
o   Quan tâm đến việc miêu tả những thổ ngữ đặc biệt của phương ngữ, nhằm làm rõ những đặc điểm có tính quy luật, quy tắc và những đặc điểm bất thường, không phụ thuộc quy tắc đó.
o   Góp phần làm sáng tỏ về lịch sử phát triển tiếng Việt qua những nghiên cứu đối chiếu với các hiện tượng ngôn ngữ giữa các vùng, các miền đất nước.
o   Việc xác định vùng phương ngữ có liên quan mật thiết đối với việc chuẩn hóa ngôn ngữ toàn dân. Việc phát hiện những bất thường ở các thổ ngữ đặc biệt trong vùng phương ngữ nào đó cũng liên quan không ít tới việc giáo dục và truyền thông đại chúng.
o   Phương ngữ học không chỉ liên quan đến vấn đề cấu trúc – hệ thống mà còn liên quan đến các ngành xã hội khác: lịch sử, địa lý, văn hóa và cả tâm lý học è liên quan đến ngoại ngữ các vùng lân cận.
Câu 2: Mối quan hệ giữa phương ngữ với ngôn ngữ văn học  - phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân.
a.     Mối quan hệ giữa phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân
-         Các quan điểm sai lầm về mối quan hệ giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân:
+Một vài sách giáo khoa nước ngoài: phương ngữ là bộ phận của ngôn ngữ toàn dân (xét theo góc độ địa lý) è Sai vì: phương ngữ có đầy đủ các đặc điểm hệ thống như ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, mối quan hệ giữa các đơn vị này).
+Nhóm những nhà “ngữ pháp trẻ” (TK XIX): phương ngữ là một nhánh của ngôn ngữ toàn dân (xét theo hiện tượng: ở giai đoạn mới ra đời có ngôn ngữ mẹ tách ra ngôn ngữ con) èSai vì: phương ngữ không tác ra khỏi ngôn ngữ như nhánh cây với cây.
+Quan niệm phương ngữ - ngôn ngữ toàn dân (cái cụ thể - cái trừu tượng) è Sai, vì cả ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ đều có cái cụ thể và trừu tượng riêng (cụ thể: biểu hiện của nó trong lời nói, chữ việt; trừu tượng: bộ mã tạo nên tính hệ thống).
-         Phương ngữ là biến thể địa phương của ngôn ngữ toàn dân:
+Về khía cạnh nghiên cứu, có thể nghiên cứu ngôn ngữ toàn dân dưới dạng một tồn tại khách quan, cụ thể, độc lập mà không cần phải đối lập với hiện tượng khác. Ngược lại, không thể nghiên cứu phương ngữ nếu không đối lập vớ các phương ngữ khác, không xem nó là biến thể của phương ngữ toàn dân. Bởi vì: Nếu 1 nước chỉ có 1 phương ngữ, thì đó là ngôn ngữ toàn dân, không có phương ngữ è Cách tiếp cận duy nhất chỉ có thể là so sánh đối lập.
+Vì nó đến phương ngữ trước hết là giả thiết có nhiều phương ngữ và có ngôn ngữ toàn dân, nên người làm ngôn ngữ học phải trả lời các câu hỏi mà người làm ngôn ngữ nói chung không cần trả lời:
1-    Tại sao 1 ngôn ngữ lại chia nhiều phương ngữ, tại sao các phương ngữ thu hẹp vào vùng nhất định, sự phân bố địa lý do đặc điểm lịch sử nào quy định?
2-    Tương lai của phương ngữ A như thế nào?
3-    Nó sẽ dung hợp với ngôn ngữ toàn dân bằng con đường nào? Ta có thể giúp người nói biện pháp ngắn nhất đi tới sự dung hợp đó?
4-    Trong sự dung hợp đó, ngôn ngữ toàn dân cần hấp thu cái gì để trở nên phong phú, đa dạng?
b.    Mối quan hệ giữa phương ngữ với ngôn ngữ văn học
-         Ngôn ngữ trong văn học trước hết thực hiện chức năng giao tiếp Cần phải lựa chọn, môt là sử dụng ngôn ngữ toàn dân, hai là sử dụng phương ngữ sao cho thỏa đáng, thích hợp, phù hợp hoàn cảnh giao tiếp.
-         Đối với văn học: việc sử dụng ngôn ngữ toàn dân nhằm đảm bảo được hiệu quả giao tiếp, không gây khó hiểu cho bạn đọc. Việc sử dụng phương ngữ làm tạo sắc thái biểu cảm, làm bật lên đặc trưng vùng miền, làm bật lên tính cách nhân vật… è Như vậy, vấn đề mối quan hệ giữa phương ngữ với văn học thể hiện ở chỗ tác phẩm văn học lựa chọn sử dụng phương ngữ như thế nào, trong bối cảnh nào, để đạt được hiệu quả thẩm mỹ cao nhất mà không gây khó hiểu cho người đọc.
-         Đối với tác phẩm tự sự: cần có sự phân biệt giữa ngôn ngữ nhà văn và ngôn ngữ nhân vật.
o   Ngôn ngữ nhà văn: Cần sử dụng ngôn ngữ toàn dân làm cơ sở. Nếu ngôn ngữ tác giả sử dụng phương ngữ, thì phải có mục đích, chứ không phải vì không còn cách nào dễ hiểu hơn. Phương ngữ được sử dụng phải làm cho người đọc hiểu ngay lập tức (tác giả giải thích, hoặc đặt vào ngữ cảnh có thể hiểu ngay được). Tần suất từ địa phương cần hợp lý để đảo bảo hiệu quả thẩm mỹ.
o   Ngôn ngữ nhân vật: Nguyên tắc “thời đại nào-tiếng nói ấy, tính cách nào-giọng điệu ấy” è Sử dụng từ địa phương để làm bật lên tính cách địa phương, tâm hồn địa phương è Việc sử dụng từ địa phương cũng cần chắt lọc để đạt hiệu quả cao nhất.
-         Đối với kịch bản văn học: có ngôn ngữ tác giả (lời chỉ dẫn về diễn xuất, bối cảnh), chủ yếu là ngôn ngữ nhân vật.
o   Lời chỉ dẫn của tác giả: cần sử dụng ngôn ngữ toàn dân. Lời chỉ dẫn không xuất hiện khi trình diễn, nên cần đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất để người đạo diễn, diễn viên có thể thẩm thấu tốt nhất.
o   Ngôn ngữ nhân vật: Sử dụng tương tự với ngôn ngữ nhân vật trong văn tự sự.
-         Đối với thơ trữ tình: Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, chủ yếu là tâm trạng của chủ thể trữ tình è Việc sử dụng phương ngữ để tạo sắc thái địa phương và làm bật lên được cảm xúc của chủ thể chữ tình (Mối quan hệ giữa phương ngữ và tâm lý). Việc sử dụng cũng cần chọn lọc để tạo hiệu quả cao nhất.
Câu 3: Tại sao phải có chính sách đối với ngôn ngữ
Khái niệm chính sách ngôn ngữ: “Chính sách ngôn ngữ, hiểu theo nghĩa rộng, là các nguyên tắc mang tính ý thức và các biện pháp thực tế để giải quyết các vấn đề ngôn 
ngữ trong một quốc gia (…); theo nghĩa hẹp, là hệ thống các biện pháp nhằm làm biến đổi hoặc duy trì cảnh huống ngôn ngữ, hoặc làm thay đổi hay duy trì chuẩn mực ngôn ngữ”
Tại sao phải có chính sách ngôn ngữ?
a.     Đảm bảo một ngôn ngữ thống nhất, đảm bảo sự đoàn kết dân tộc.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp. Theo Lê-nin, ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách dân tộc, cụ thể là việc tập hợp, đoàn kết các dân tộc, nhất là ở các quốc gia đa dân tộc è chính sách ngôn ngữ nhằm tạo ra một ngôn ngữ thống nhất, một tiếng nói chung để tăng cường sự thấu hiểu giữa các dân tộc, huy động nguồn lực toàn dân.
b.     Đảm bảo quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ của một dân tộc (theo nghĩa hẹp)
Quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ của một dân tộc là quyền lợi chính đáng bất khả xâm phạm. Quyền đó cần được quy định và bảo vệ trong chính sách ngôn ngữ của một dân tộc.
VD ở Việt Nam: Có các lớp dạy tiếng dân tộc cho cán bộ công tác vùng cao, có các kênh truyền hình, chương trình truyền thanh tiếng dân tộc phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số; kênh truyền hình VTV có phát thanh viên giọng địa phương…
c.      Thừa nhận một ngôn ngữ quốc gia, chuẩn hóa ngôn ngữ.
-Thừa nhận một ngôn ngữ quốc gia không phải là sự áp đặt bằng cách tạo ưu thế cho một ngôn ngữ mà phải nhận thấy tính khách quan từ sự phát triển của ngôn ngữ đó trong sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.
-Chuẩn hóa ngôn ngữ liên quan mật thiết đến giáo dục, truyền bá văn hóa, tư tưởngè Phát triển xã hội.
- Ở Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, vì trải qua quá trình phát triển của lịch sử, tiếng việt gắn liền với văn hóa (văn học, nghệ thuật), khoa học (các thuật ngữ khoa học, các khái niệm khoa học), kinh tế (85% người Việt dân tộc Kinh).
-Đặt ra vấn đề: Tôn trọng ngôn ngữ dân tộc thiểu số, tạo điều kiện để người dân tộc học tiếng Việt để hội nhập, phát triển văn hóa kinh tế.
d.     Tránh sự xung đột ngôn ngữ
Ở một vài nơi trên thế giới có sự xung đột về ngôn ngữ giữa các tộc người è Cần có chính sách ngôn ngữ để tạo sự ổn định, bền vững nếu chính sách hợp lý. Đặt ra vấn đề chính sách ngôn ngữ để nhắc nhở về các mối quan hệ liên quan đến ngôn ngữ.
Ở Việt Nam, tiếng Việt là cầu nối giữa các dân tộc để cùng phát triển, bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
e.      Bảo tồn ngôn ngữ dân tộc
Do sự tác động tiêu cực của sinh thái ngôn ngữ (language ecology) nên nhiều ngôn ngữ đang trên bờ vực diệt vong. Ngôn ngữ chết là ngôn ngữ không còn được sử dụng nữa è Chính sách ngôn ngữ là cần thiết để bảo tồn ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, cũng là đảm bảo quyền được sử dụng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc.

Câu 4: Hãy phát biểu về vấn đề phương ngữ và công việc giáo dục

1.     Vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt
-         Vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt được đặt ra cấp thiết sau khi giành độc lập è Tiếng Việt có cương vị xứng đáng như một ngôn ngữ quốc gia.
-         Cần cái nhìn đúng đắn với tiếng địa phương: Tiếng địa phương không hề hạ đẳng so với tiếng toàn dân. Nói tiếng địa phương không phải nói ngọng è Trong đời sống xã hội, văn hóa lịch sử, kinh tế chính trị của mỗi địa phương, tiếng địa phương có vị trí quan trọng, gần gũi thân quen.
-         Giải pháp: Căn cứ tốt nhất để điều chỉnh cách phát âm địa phương, là dựa vào chữ quốc ngữ, vì nó biểu hiện đầy đủ hệ thống ngữ âm tiếng Việt.
2.     Phương ngữ và công việc giáo dục
Về phía nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo: Phải có chính sách ngôn ngữ rõ ràng è Ngôn ngữ sách giáo khoa, văn bản hành chính của nhà nước phải rõ ràng, chính xác, thống nhất.
Về phía giáo viên:
-Thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương về ngôn ngữ của Nhà nước, của Bộ.
-Khi dạy học, ngôn ngữ cơ bản là ngôn ngữ toàn dân, là ngôn ngữ văn hóa, ít khẩu ngữ.
-Trong giờ dạy giáo viên có thể sử dụng giọng địa phương, nhưng phải chỉnh những âm hình gây trở ngại cho học sinh trong việc nghe, hiểu, lĩnh hội tri thức.
-Giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học cần hướng đến cách phát âm chuẩn để tập luyện, hướng dẫn học trò.
Về phía học sinh:
-Thực hiện nghiêm túc hướng dẫn của giáo viên.
-Hiểu được khi nào sử dụng từ toàn dân, khi nào sử dụng từ địa phương, trong cả giao tiếp đời sống lẫn thực hành tạo dựng các loại văn bản.
3. Ứng dụng hiểu biết về phương ngữ học để sửa lỗi chính tả liên quan đến từ địa phương:
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Ly Kha, việc sửa chính tả bằng chính âm là một con đường vòng, “sửa một lỗi khó bằng một cách khó hơn” è Theo tác giả, chính tả liên quan đến văn hóa, thói quen hơn là liên quan đến phát âm è Sửa lỗi chính tả tốt nhất là dựa vào việc hiểu nghĩa của từ, cần luyện tập các vấn đề về chính tả một cách hợp lý, có phương pháp. è Đề xuất giải pháp: Dựa vào tần suất xuất hiện để chọn từ, chữ thích hợp và dành thời gian luyện tập cho từ, chữ đó. VD: Với  học sinh miền Nam, các lỗi ít sai như l/n; s/x chỉ cần lướt qua, để sửa các lỗi sai âm cuối c/t; n/ng…
Câu 5 NHỜ ĐÂU MÀ TIẾNG VIỆT CÓ TÍNH THỐNG NHẤT
-         Do tính thống nhất về mặt địa lý, yêu cầu đặt ra là cần có một ngôn ngữ chung mang tính thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Việt Nam có 54 dân tộc anh em, một số dân tộc có tiếng nói và chữ viết riêng. Trên cơ sở tôn trọng, bảo tồn những nét đẹp trong ngôn ngữ của các dân tộc, tránh xung đột dân tộc khiến ngôn ngữ của một dân tộc trở thành ngôn ngữ chết, cần chọn ra một ngôn ngữ là công cụ giao tiếp chung, để thực hiện chức năng hành chính trong các văn bản pháp quy.

-         Tiếng Việt thống nhất trong sự đa dạng với sự tồn tại của những phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội. Với sự phân chia đa dạng của các thành phần phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội, người Việt ở các vùng miền khác nhau, với cách phát âm khác nhau vẫn có thể hiểu nhau khi giao tiếp. Bên cạnh đó, trong các quá trình biến đổi, do những tác động ảnh hưởng nhiều chiều, nhiều kiểu của nhiều nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ, thì ba mặt: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của nó vẫn không biến đổi đồng đều như nhau. Để thực hiện được chức năng làm công cụ giao tiếp và phản ánh, bảo đảm cho mọi người sử dụng có thể hiểu được nhau, mặt từ vựng của ngôn ngữ bao giờ cũng thay đổi nhanh nhạy nhất, mặt ngữ âm biến đổi chậm hơn rất nhiều so với từ vựng, còn ngữ pháp là bộ phận biến đổi chậm nhất và ít nhiều nó mang tính cách của một nhân tố, một thành phần bảo thủ. Tính thống nhất của các ngôn ngữ thân thuộc chỉ tìm thấy lại trong thời gian. Ngôn ngữ có tính chất bất biến và khả biến. Với sự tác động của thời gian, ngôn ngữ không còn giữ lại những thuộc tính cố hữu mà thay đổi phù hợp với bối cảnh xã hội và suy nghĩ của con người thời đại đó. Sự đa dạng trong ngôn ngữ đã dẫn đến việc hình thành các dạng thức phương ngữ khác nhau, ở các địa phương khác nhau. Đó là lý do khiến tiếng nói của người dân ở các khu vực khác nhau có những điểm khác biệt.
-         Về số lượng, ngôn ngữ toàn dân vẫn nhiều hơn phương ngữ. Mức độ phổ biến và tần suất sử dụng của ngôn ngữ toàn dân cao hơn hẳn trên cả phương diện địa lý và ngữ cảnh sử dụng. 

Đăng nhận xét