Search Suggest

Một số chi tiết trong "Vợ nhặt" (Kim Lân)




ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT VỀ NGỮ CẢNH, LỰC NGÔN TRUNG, TIỀN GIẢ ĐỊNH ĐỂ PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHI TIẾT TRONG TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN
Chất liệu của văn học là ngôn từ. Ngôn từ văn học và nội dung tư tưởng của nhà văn thống nhất biện chứng với nhau tạo thành chỉnh thể của một tác phẩm văn học. Theo quan điểm lí luận văn học mác xít, nội dung là cái có trước, đó là sản phẩm của quá trình nhà văn thâm nhập hiện thực đời sống, trải nghiệm, quan sát, tư duy, xúc cảm để khám phá ra được những vấn đề bản chất nhất, quan trọng nhất của htời đại, để từ đó đưa vào nội dung tác phẩm, mang đậm cái nhìn chủ quan của nhà văn. Nội dung tồn tại như một khách thể tinh thần trong đầu của nhà văn, nó đòi hỏi cần có một vỏ vật chất để tồn tại và đến với bạn đọc: đó là lúc nội dung tự chọn cho mình một hình thức phù hợp. Quá trình sáng tạo: đi từ nội dung đến hình thức là quá trình “kí mã”. Quá trình “giải mã”, do vậy, là quá trình đi ngược lại từ hình thức đến khám phá nội dung. Như vậy có thể thấy, việc sử dụng các lý thuyết ngôn ngữ học vào quá trình tìm hiểu một tác phẩm là một điều tất yếu. Lý thuyết của phân môn từ vựng – ngữ nghĩa – ngữ dụng cũng không ngoại lệ.
Trong phạm vi bài viết này, người viết sẽ ứng dụng lý thuyết về ngữ cảnh, lục ngôn trung, tiền giả định để phân tích một vài chi tiết trong tác phẩm “Vợ nhặt” [1]của nhà văn Kim Lân. Qua đó sẽ làm rõ hơn một vài khía cạnh về tính cách của các nhân vật chính: cô vợ Nhặt, bà cụ Tứ, Tràng.
Ngữ cảnh là: “Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ, tạo lập lời nói đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội thấu đáo lời nói.”[2]Có ba loại ngữ cảnh: ngữ cảnh ngôn ngữ (những yếu tố ngôn ngữ trước và sau giúp hiểu được văn bản), ngữ cảnh tình huống (tình huống xảy ra của văn bản giúp ta hiểu rõ hơn nội dung văn bản), ngữ cảnh văn hóa. Như vậy có thể nói, ngữ cảnh chính là “chìa khóa”, là dấu hiệu để người đọc dần khám phá ra những tầng lớp nghĩa hàm ẩn của văn bản. Một đoạn văn bản trong ngữ cảnh này có thể có ý nghĩa này, trong ngữ cảnh khác có thể có ý nghĩa khác, do vậy, việc phân tích, tìm hiểu môt tác phẩm văn chương nhất thiết phải gắn chúng trong ngữ cảnh cụ thể.
Vấn đề ngữ cảnh được thể hiện rõ nhất trong việc tìm hiểu tính cách của nhân vât cô vợ Nhặt. Thoạt nhìn hiện lên, cô vợ nhặt có vẻ là một người chao chát, chỏng lỏn, không gây được thiện cảm. Đàn bà con gái trong ứng xử hằng ngày, ai lại mặt thì “sưng sỉa”, lời nói thì: “Điêu, người thế mà điêu!”, “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt”, “Ăn gì thì ăn, chứ chả ăn giầu!”.
Nếu tách khỏi ngữ cảnh của tác phẩm (tức soi chiếu trên ngữ cảnh giả định là hoàn cảnh hiện tại của người tiếp nhận), người đọc có thể thấy thiếu thiện cảm với cô vợ nhặt, và có thể đi đến kết luận đây là một người đàn bà bỗ bã, thô tục. Nhưng hãy khoan kết luận, chúng ta thử soi chiếu vào ngữ cảnh của câu chuyện: Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Truyện ngắn là cách cưa lấy một khúc của đời sống, từ khúc cưa ấy ta thấy trăm năm đời thảo mộc, cảnh nạn đói khủng khiếp được Kim Lân dựng nên từ những chi tiết đắt giá: Đó là tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết, đó là cái bóng tối bao trùm những gian nhà úp súp tối om, đó là mùi tử khí nồng nặc. Hiện lên trên bức nền tang thương của nạn đói là cảnh những dòng người đói dắt díu nhau, là cảnh những xác chết đầy đồng. Đó là bức tranh khiến ta vừa rùng mình sợ hãi vừa xót xa đau đớn!
Ta thấy rằng trong hoàn cảnh ấy, sự sống của con người thật mong manh, dấu vết của cái chết nhan nhản khắp nơi, con người sống trong nỗi lo thường trực về cái chết, và quả thực lưỡi hái thần chết treo lơ lửng trên đầu của họ. Nay còn có thể lay lắt cực nhóc tìm miếng ăn, mai đã có thể là một xác chết nằm giữa đường. Trong hoàn cảnh ấy, con người ta rõ ràng không thể suy nghĩ, hành động, nói năng… giống như trong các hoàn cảnh bình thường khác.
Đó chính là cơ sở để chúng ta nhìn nhận cô vợ nhặt, bởi cô là một nạn nhân trong bối cảnh nạn đói đó. Nếu nhìn trên khía cạnh này, những lời nói của cô vợ nhặt đã nêu ở trên không thể và không nên nhìn ở khía cạnh đạo đức đánh giá nhân cách con người, hoặc nếu nhìn về phía ấy, thì cũng cần được nhìn dưới góc độ thương cảm.
Trước hết ta thấy được tác hại ghê gớm của nạn đói, nó giày xéo lên cuộc sống của con người, giày xéo lên tâm hồn của họ, khiến họ phải đánh mất tự trọng, đánh mất nhân phẩm để tồn tại.
Nhưng liệu rằng vấn đề ở đây có đơn thuần là câu chuyện của những con người đánh mất nhân phẩm trong nạn đói, hay còn là vấn đề khác? Ta hãy thử phân tích lời hội thoại của cô Vợ nhặt qua lý thuyết về lực ngôn trung.
Về khái niệm lực ngôn trung, Giáo sư Cao Xuân Hạo viết:
“Khi nói ra một câu là ta thực hiện một hành động. Trước hết đó là một hành động nhận định hay phán đoán, mà nội dung là truyền đạt một mệnh đề. Đồng thời, ngay trong khi nhận định hay phán đoán như thế ta cũng dùng sự nhận định hay phán đoán ấy để tác động lên người nhe như thế nào đấy. Chẳng hạn khi nhận định rằng:
(83)a. Em ngoan lắm!
Ta khen đứa em (để khích lệ nó).
     b. Em hư lắm!
Ta chê, hay mắng nó (để cho nó biết hành động của nó xấu mà chừa đi)
   c. Em làm chị nhức đầu quá!
Ta trách nó (để cho nó biết mà thôi quậy phá)
Trong khi nhận định ba điều trên đây (có thể nhận định đúng hay nhận định sai) ta đồng thời cũng thực hiện ba hành động ngôn trung (có thể hiệu quả hay không hiệu quả, có thể làm cho đứa em buồn, vui, hờn, giận).
Ta nói rằng mỗi câu trên có một nội dung mệnh đề theo một lực ngôn trung (hay giá trị ngôn trung) nhất định.”[3]
Như vậy, theo cách hiểu của người viết, hành động theo lực ngôn trung là hành động tác động đến người nghe, thông qua hành động nói của chủ thể phát ngôn. Hành động ngôn trung và câu phát ngôn có thể không đồng nhất với nhau, như quan niệm thông thường: câu trần thuật (kể), câu nghi vấn (hỏi), câu cầu khiến (cầu khiến), câu cảm (cảm thán). Trong đời sống, người ta vẫn có thể dùng câu nghi vấn để cầu khiên hay cảm thán, câu trần thuật kết hợp với ngữ điệu lên cao có thể dùng để hỏi… và còn nhiều mục đích khác nữa.
Quay trở về với cô vợ nhặt, trước hết ta có thể thấy,hành động cô gặp Tràng, đòi ăn, rồi đi theo Tràng, không phải là hành động của một kẻ bị cái đói làm mất hết lí trí, mất hết nhân phẩm. Không phải ngẫu nhiên mà cô vợ nhặt bảo Tràng:
-“Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố!”
Câu nói ấy hẳn nhiên không phải chỉ là một câu thể hiện sự cảm thông, lo ngại cho Tràng, sự xuất hiện của từ “chị ấy” cho ta thấy đây là một câu dò hỏi: “Tràng có vợ hay chưa?”. Và câu dò hỏi ấy đã tỏ ra là có tác dụng, anh Tràng trả lời:
-Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
“Này nói đùa chứ” nhưng lại thành chuyện thật! Quyết định theo không Tràng ngay tức khắc của cô vợ nhặt cho ta thấy câu nói đã trích dẫn bên trên của cô rõ ràng còn ẩn chứa một mong mỏi sau cái ướm hỏi.  Nạn đói như một cơn lũ siết dìm chết con người, cô vợ nhặt – quay cuồng trong cơn lũ ấy đã vớ được Tràng – một cái cọc cứu sinh! Đây là vấn đề bản năng sinh tồn, hay như tiến sĩ Chu Văn Sơn gọi: bản năng ham sống. Con người ta sẽ tìm mọi cách để sống, để tồn tại dù cho nghịch cảnh có khắc nghiệt như thế nào, đó là một điều tất yếu. Cô vợ nhặt trong trường hợp này cũng vậy, theo không một người đàn ông về nhà làm vợ, lại mang tiếng vợ nhặt, lại có những câu hỏi dò, không phải là không tự trọng, mà là sự trỗi dậy của bản năng ham sống. Đó là sự lựa chọn giữa sống và chết mà lằn ranh có khi chỉ trong tích tắc!
 Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng nhận xét: “Con người là tổng hòa của các đối cực”, ngay trong diễn biến nội tâm cô vợ nhặt ở đoạn này, cũng đã có thể thấy sự giao tranh, giằng co quyết liệt giữa bản năng ham số và nhâm cách làm người. Nếu như thật sự đã trâng tráo đòi ăn cho bằng được mấy bát bánh đúc của Tràng, thì tại sao trước khi ăn cô vợ Nhặt còn nói:
-Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Cứ cho câu đó là một phép lịch sự xã giao khi được người ta mời một món ăn, thì chỉ cần nói một lần, “Ăn thật nhá!” là được rồi, tại sao lại còn lặp đi lặp lại đến 2 lần, thêm cả “Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Ai làm gì mà sợ?
Không chỉ là phép xã giao, câu nói ấy còn có tác dụng để che đi sự hổ thẹn. “Miếng ăn là miếng nhục”, nhất là lại cong cớn chao chát chỏng lỏn để có miếng ăn, hỏi sao không xấu hổ. Nhưng ở đây không có sự lựa chọn, hoặc là ăn hoặc là chết, không có chỗ cho sự xấu hổ. Hai câu nói trên có tác dụng xua đi nỗi thẹn trong lòng cô vợ nhặt.
Như vậy cô vợ nhặt có thẹn! Người biết thẹn không thể là người đánh mất hết lòng tự trọng. Ở đây, Kim Lân đã khéo léo mở ra cho người đọc thấy một khía cạnh nhân phẩm của cô vợ nhặt, một vẻ đẹp khuất lấp dưới vẻ chao chát chỏng lỏn, mà để sinh tồn trong nạn đói, buộc cô vợ nhặt phải khoác lên mình. Vẻ đẹp khuất lấp ấy đến đoạn sau của tác phẩm ngày một hiện rõ hơn, cô vợ nhặt dần lột bỏ vẻ ngoài xấu xí chao chát chỏng lỏn để trở thành người vợ hiền con thảo đúng mực chăm lo cho cuộc sống của Tràng, trở thành nhân vật “vô danh nhưng không vô nghĩa”, có vai trò mở ra cho cuộc sống của Tràng một con đường sáng.
Về tiền giả định, Giáo sư Cao Xuân Hạo định nghĩa: “Tiền giả định của một câu nói là một điều gì phải được giả định là đã có trước khi nói câu đó, vì nếu không có điều này thì không thể nói câu đó được”.[4]
Xác định tiền giả định một vài lời thoại của nhân vật Tràng hay bà cụ Tứ, ta có thể hiểu thêm về tính cách của các nhân vật này.
Với nhân vật Tràng, ta thấy Kim Lân xây dựng đây là một nhân vật được tạo hóa đẽo đục rất thô sơ. Nhưng sau vẻ thô sơ ấy là cả một tấm lòng chân thành, ấm áp. Khi cô vợ nhặt theo, anh cũng chợn: “Thóc gạo đến tay mình không biết có nuôi nổi mình không mà còn đèo bòng” . Nhưng anh ta chỉ tặc lưỡi: “Chậc kệ!” – đó là cái tặc lưỡi chấp nhận đánh cuộc với tử thần trong ván bài đổi lấy hạnh phúc. Vợ nhặt – theo không về nhà người ta, không đám cưới, đám hỏi, nhưng Tràng không hề khinh ghét cô, trái lại, “cảm thấy lòng đầy tình nghĩa với người đàn bà đi bên”.
Tấm lòng ấy còn được thể hiện trong lời thoại Tràng nói với bà cụ Tứ:
-Kìa, nhà tôi nó chào u!
Hai chữ “nhà tôi” có tiền giả định là Tràng đã xem cô vợ nhặt là vợ. Phải coi nhau như vợ chồng thì mới gọi nhau là “nhà tôi”, mà không chỉ coi nhau như vợ chồng, mà còn là vợ chồng thắm thiết, yêu thương nhau. Hai tiếng “nhà tôi” sao mà thân thương trìu mến, nó góp phần xoa dịu cái tủi thân bạc bẽo của hai tiếng vợ nhặt.
Hay như bà cụ Tứ, khi gặp cô vợ nhặt, đã nhận ra “bao nhiêu cớ sự vừa đau đớn vừa xót xa”, “người ta lấy nhau lúc ăn nên làm nổi, còn con mình thì…”, nhưng bà dần dần nhận ra và chấp nhận cô.
Bà nói: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Cách xưng hô “các con” –“u” có tiền giả định là bà cụ Tứ đã cho phép cô vợ nhặt và Tràng lấy nhau. Cô vợ nhặt có lấy Tràng, thì mới là con dâu bà, mới gọi là co được. Tuy vậy ở câu này vẫn có cái gì đó miễn cưỡng, có cái gì đó buồn, đó là sự xuất hiện của “thôi thì”, của trợ từ “cũng”.
Thế nhưng càng về sau, sự miễn cưỡng mất dần, bà trìu mến với với cô vợ nhặt: “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” (dường như cô vợ nhặt không còn là con dâu, mà trong cái thân mật này, ta cảm tưởng bà cụ Tứ đã coi cô như con đẻ, thương cô như con đẻ), bà bày tỏ sự xót xa rất chân thành tới hai con: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”.
Các từ để gọi nhau trong gia đình, nhà tôi, u, các con có tiền giả định là những mối quan hệ gia đình thân tình, tốt đẹp, thể hiện tình yêu thương chan hòa, trìu mến. Từ đó ta thấy được tâm hồn nhâu hậu, bao dung, khao khát yêu thương hạnh phúc của Tràng và bà cụ Tứ.
Về tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân tâm nguyện: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vân hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con người."[5]Điều ấy thể hiện rất rõ trong tư tưởng, chủ đề, cảm hứng mà nhà văn thể hiện qua các nhân vật của mình. Để khám phá được tư tưởng ấy, ta không thể không đi sâu vào khai thác lớp vỏ ngôn từ của văn bản. Quả thật, những tri thức công cụ của ngành ngôn ngữ học có tác dụng không hề nhỏ trong việc hiểu hơn tầng nghĩa ngôn từ của tác phẩm, từ đó làm cơ sở để người đọc thâm nhập vào tầng nghĩa hình tượng, tầng nghĩa tư tưởng.


[1]Truyện ngắn của nhà văn Kim Lân trích trong tập Con chó xấu xí (1962)
[2]Nguồn: http://tuoitrebentre.vn/threads/11717-Khai-niem-ngu-canh
[3] Giáo sư Cao Xuân Hạo – Tiếng Việt: mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa trang 595, 596
[4] Giáo sư Cao Xuân Hạo –Tiếng Việt: một số vấn đề ngữ âm – từ vựng – ngữ nghĩa. Trang 555
[5]Nguồn: http://thanhchuongartist.com.vn/vi/kim-lan-phieu-dieu-trang/79-nha-van-kim-lan.html

Đăng nhận xét