Search Suggest

Phát triển Phê bình luân lí học văn học ở Việt Nam

  1. Mở đầu
Hiện nay, trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam tồn tại rất nhiều phương pháp phê bình văn học, hình thành cục diện đa nguyên, nhưng từ sau đổi mới, thuật ngữ phê bình luân lí học văn học chưa một lần được chú ý. Bài viết này muốn từ những vận động trong nghiên cứu văn học thế giới và thực tiễn hoạt động văn học trong nước, giới thiệu phương pháp phê bình luân lí học văn học và phân tích khả năng phát triển của phương pháp này ở Việt nam.
  1. Nội dung
  2. Chuyển hướng luân lí trong nghiên cứu văn học thế giới – cơ hội đến từ bên ngoài
          Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và đạo đức luân lí ngay từ thời cổ đại đã được chú ý đến, nhưng công trình nghiên cứu luân lí học văn học chỉ thực sự xuất hiện vào nửa sau thế kỉ 19. Bài diễn giảng Luân lí học văn học ở Dartmouth College năm 1838 của Ralph Waldo Emerson, Bàn về văn học và luân lí học (1853) của White có ảnh hưởng tương đối lớn… Sau đó, nửa sau thế kỉ 19 xuất hiện những chuyên luận học thuật như Luân lí học và mĩ học thơ ca hiện đại (J.B.Selkir, 1878), Luân lí học tiểu thuyết hiện đại (Trevor Creighton, 1884), Tuyển tập văn học và luân lí học (Wiliam E.A.Xon, 1889), Luân lí học văn học nghệ thuật (Maurice Thompson, 1893), Luân lí học văn học(John A.Kersey, 1894)… Đầu thế kỉ 20, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa duy mĩ và lí luận ngôn ngữ của Saussure, chủ nghĩa thực chứng, nghiên cứu văn học phương Tây đã thực hiện sự chuyển hướng ngôn ngữ luận, Phê bình mới, Chủ nghĩa hình thức Nga, Chủ nghĩa cấu trúc, Kí hiệu học… đều nhấn mạnh vị trí trung tâm của ngôn ngữ, nhấn mạnh quy luật nội tại của bản thân văn học, từ đó tiến thêm một bước phân tích quan hệ giữa văn học và ngôn ngữ. Vấn đề đạo đức luân lí luân lí trong nghiên cứu văn học bị mờ hơn khi nghiên cứu văn học bước vào giai đoạn hậu hiện đại với sự xuất hiện của chủ nghĩa tương đối, đa nguyên giá trị…. Tuy nhiên, nghiên cứu văn học và luân lí học vẫn là đối tượng được quan tâm của xã hội, nhà văn và bạn đọc, như cuốn Dẫn luận luân lí học kịch thời đại Elizabeth: nhạc giao hưởng Shakepear (Harold Bayley, 1906), Văn học Hy Lạp và Tôn giáo luân lí học, luân lí học cựu ước (stella Louise Lange, 1935)… Nhưng nhìn chung, nghiên cứu luân lí học văn học đã trầm xuống.
Từ những năm 80 của thế kỉ 20, nghiên cứu văn học thế giới lại có bước chuyển hướng văn hóa với hàng loạt khuynh hướng nghiên cứu như Chủ nghĩa nữ quyền, Chủ nghĩa hậu thực dân, Phê bình sinh thái… Lúc này, nghiên cứu luân lí học văn học lại được phục hưng. Có khuynh hướng nghiên cứu giá trị luân lí của văn học nhà văn và sự đọc, như Tưởng tượng đạo đức: bàn về văn học và luân lí học (Chrristopher Laurensen, 1986), Luân lí học của sự đọc (J.Hills Miller, 1987)… luân lí học văn học đã trở thành một khoa học mới được đông đảo giới học thuật chú ý. Bên cạnh đó còn có xu hướng chuyển từ nghiên cứu giá trị đạo đức thông thường của văn học sang phân tích vấn đề luân lí của tác phẩm, nhà văn. Gray. Wei và David Williams chủ biên cuốn Văn học và luân lí học (1988) đã thể hiện rõ ràng khuynh hướng này. Sang thế kỉ 21 thì hướng này phát triển thêm một bước với những công trình như Song trùng điểm nhìn: triết học đạo đức và Kịch Shakepear (2007), Tưởng tượng đạo đức của T.S. Eliot thế kỉ 20 (2008). Như vậy phê bình luân lí văn học đã thoát khỏi sự chèn ép của các trường phái nghiên cứu khác và trở lại, đồng thời đã có những biểu hiện mới. Có học giả cho rằng, sang thế kỉ 21 nhân loại phải đối diện thường xuyên với vấn đề sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội, cho nên, luân lí đạo đức và môi trường tự nhiên trở thành vấn đề chủ yếu của thế kỉ mới, chính điều này đã thúc đẩy sự chuyển hướng của luân lí học văn học.
Ở Trung Quốc, hình thức biểu hiện sớm nhất của phê bình luân lí – phê bình đạo đức – bắt đầu từ thời Chu. Chỉ có điều phê bình luân lí lúc đó chủ yếu dùng ý thức đạo đức chính trị và quan hệ luân lí để phân tích và bình giá tác phẩm văn học nghệ thuật, sau đó, thông qua sự khuếch trương của Khổng Tử, nó có hảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác và phê bình văn nghệ sau này. Đến những năm 80 của thế kỉ 20, giáo sư Chu Hiến bắt đầu nghiên cứu công trình của đại diện cho phê bình luân lí Mĩ Wayne Clayson Booth, năm 1984 đã đăng bài Một vài khuynh hướng nghiên cứu văn học phương tây hiện đại[1] trong đó đặc biệt đã nói đến phê bình luân lí hiện đại phương Tây. Cuốn Tu từ học tiểu thuyết[2] của Booth do Chu Hiếu…. dịch năm 1987 đã đánh dấu phê bình luân lí Mĩ bắt đầu được tiếp nhận và truyền bá ở Trung Quốc, đặt cơ sở cho phê bình luân lí phát triển mạnh ở Trung Quốc đầu thế kỉ 21. Năm 2009 Mục Lôi chủ biên và cho xuất bản cuốn: Sự phục hưng của tu từ[3] của Clayson Booth tập hợp 17 bài kinh điển giới thiệu quan điểm chủ yếu và phê bình mang tính chất đại diện cho phê bình luân lí Mĩ của ông. Nhưng phê bình luân lí học văn học ở Trung Quốc chỉ thực sự phát triển mạnh với giáo sư Đại học Sư phạm Hoa Trung Nhiếp Trân Chiêu. Từ năm 2004 đến nay ông đã chủ trì 5 hội thảo quốc tế về phê bình luân lí học văn học thu hút sự tham gia của hàng trăm học giả trong nước và quốc tế mỗi lần tổ chức, đồng thời cho xuất bản cuốn Dẫn luận phê bình luân lí học văn học (2014)[4].
  1. Phê bình luân lí học văn học – phương pháp nghiên cứu văn học đặc thù
          Cho đến nay, phương pháp phê bình luân lí học văn học vẫn chưa thực sự được chú ý ở Việt Nam. Ấn tượng về một thời phê bình văn học có khuynh hướng chụp mũ, quy kết, phán xét khá nặng nề đã dẫn đến tình trạng dị ứng với phương pháp phê bình luân lí đạo đức trong nghiên cứu văn học, mặc dù ở chỗ này chỗ khác, trong quá trình nghiên cứu các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam vẫn khắc khoải về tình trạng tha hóa về đạo đức. Để xóa bỏ định kiến này, trước hết, chúng ta cần phải giới định về phương pháp phê bình luân lí học văn học trong tương quan với luân lí học và phê bình đạo đức.
Phê bình luân lí học văn học và luân lí học có mối quan hệ gần gũi bởi vì phê bình luân lí học văn học đã mượn phương pháp luân lí học để nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, khi vận dụng phương pháp luân lí học nghiên cứu văn học, phê bình luân lí học văn học vẫn không xa rời các phương pháp nghiên cứu văn học khác.  Đối tượng nghiên cứu của phê bình luân lí học văn học và luân lí học cũng khác nhau. Đối tượng nghiên cứu của luân lí học là các hiện tượng đạo đức trong xã hội hiện thực, hoặc nếu có nghiên cứu các hiện tượng đạo đức trong tác phẩm văn học thì luân lí học cũng chỉ coi nó như một tư liệu để đánh giá vấn đề đạo đức trong đời sống hiện thực xã hội, từ đó đưa ra các phán đoán giá trị thiện ác. Trong khi đó, đối tượng nghiên cứu của phê bình luân lí học văn học lại là các hiện tượng đạo đức trong thế giới sáng tạo bằng ngôn từ nghệ thuật, giống hiện thực mà không phải là hiện thực, từ đó đưa ra các phán đoán thẩm mĩ. Nhiếp Trân Chiêu khẳng định: “phương pháp phê bình luân lí học văn học và luân lí học vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt trên phương diện đối tượng, nội dung và mục đích đạt tới”[5].
Cũng cần phải phân biệt Phê bình luân lí học văn học với Phê bình đạo đức.  Về bản chất, phê bình luân lí học văn học là một phương pháp nghiên cứu văn học, cho nên điều mà nó quan tâm là phân tích, lí giải các hiện tượng đạo đức trong thế giới do nhà văn sáng tạo ra, một thế giới nghệ thuật có không gian, thời gian, quy luật và số phận riêng. Trong quá trình phân tích lí giải đó, phương pháp phê bình này chú ý đảm bảo nguyên tắc thẩm mĩ, ứng xử với vấn đề đó như ứng xử với một sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật. Trong khi Phê bình đạo đức lại ứng xử với các hiện tượng đạo đức từ lập trường của hiện thực, quy kết nó về thực tại. Chính điều này khiến cho giới nghiên cứu phê bình Việt Nam dị ứng với phê bình đạo đức. Bởi phương pháp này dễ dẫn đến quy chụp, phán xét không để ý đến bản chất thẩm mĩ của văn học. Nhiếp Trân Chiêu từng chỉ ra: “Phê bình luân lí học văn học và phê bình đạo đức khác nhau ở chỗ phê bình luân lí học văn học kiên trì bình giá văn học từ lập trường của hư cấu nghệ thuật, còn phê bình đạo đức lại phê bình văn học từ lập trường hiện thực và chủ quan”[6].
Trên tổng thể, sang thế kỉ mới, giới nghiên cứu văn học Trung Quốc đã tiến hành giới định lại, tiến tới hoàn thiện trong quan niệm về phê bình luân lí học văn học. Ở phương diện này, người có đóng góp khá lớn là Nhiếp Trân Chiêu. Ông đã xuất phát từ nhiều góc độ để có một cái nhìn tương đối toàn diện về phương pháp phê bình cổ điển mà hiện đại này. Từ góc độ quan hệ giữa nhà văn và sáng tác, phê bình luân lí nghiên cứu quan niệm đạo đức luân lí của nhà văn và đặc điểm, nguyên nhân, bối cảnh thời đại, quá trình hình thành những quan niệm này; quan hệ giữa quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức mà tác phẩm biểu hiện; ảnh hưởng của quan niệm đạo đức luân lí của nhà văn đến sáng tác của họ. Riêng đối với sáng tác của nhà văn, phê bình luân lí nghiên cứu các quan hệ giữa tác phẩm và các hiện tượng đạo đức tồn tại trong xã hội; khuynh hướng đạo đức mà tác phẩm biểu hiện; giá trị xã hội và giá trị đạo đức trong tác phẩm. Đối với quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, phê bình luân lí nghiên cứu cảm thụ của người đọc về quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức trong tác phẩm, sự bình giá của người đọc về quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức trong tác phẩm, ảnh hưởng của khuynh hướng đạo đức trong tác phẩm đối với người đọc và xã hội. Phê bình luân lí còn bao gồm: làm thế nào từ góc độ luân lí học bình giá khuynh hướng đạo đức của nhà văn và tác phẩm; quan hệ giữa quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức mà tác phẩm biểu hiện với truyền thống; ảnh hưởng của quan niệm đạo đức của nhà văn và khuynh hướng đạo đức của tác phẩm đến nhà văn và văn học đời sau; tác phẩm văn học, đạo đức xã hội và giáo dục đạo đức xã hội. Mục đích của phê bình luân lí học văn học không chỉ là thuyết minh đặc điểm của luân lí đạo đức trong văn học hoặc vấn đề luân lí học của việc nhà văn sáng tác văn học, mà còn là từ góc độ đạo đức luân lí nghiên cứu các vấn đề về quan hệ giữa tác phẩm văn học và xã hội, văn học và nhà văn, văn học và người đọc[7]
Như vậy, trong khái quát giới định lại về phê bình luân lí học văn học của giới nghiên cứu Trung Quốc đã cho thấy diện mạo mới của phê bình luân lí học văn học trong thời kì mới. Phê bình luân lí học văn học khôi phục lại vị trí của tác giả trong quá trình hình thành văn bản; thừa nhận tính xã hội của văn bản. Nhấn mạnh vai trò của người đọc, có điều, văn học bị coi là kẻ khác của người đọc, người đọc là tham tố của vấn đề luân lí mà tác giả – người thiết kế văn bản quan tâm. Phê bình luân lí phát hiện ra diện mạo đạo đức, mục đích đạo đức ngay trong kết cấu hình thức, mô hình thể loại, mô hình diễn ngôn cụ thể. Tất nhiên, phê bình luân lí học văn học cũng không quên vai trò của chính trị, xã hội. Cuối cùng, phê bình luân lí học văn học tiếp tục bàn luận vai trò của chính trị, xã hội[8].  Rõ ràng, trong thời kì mới, phê bình luân lí học văn học chú ý đến quan hệ tương tác giữa việc làm thế nào để miêu tả kẻ khác, xác lập quan hệ trách nhiệm với kẻ khác, so sánh thể nghiệm kẻ khác và việc đọc văn bản. Thông qua việc đọc văn bản có thể thu được kinh nghiệm đối xử một cách luân lí với kẻ khác và bản thân việc đọc chính là trải nghiệm đối xử luân lí với người khác. Có thể thấy, phê bình luân lí học văn học hiện đại đã hấp thu được những thành quả mới nhất của nghiên cứu văn học để tự hình thành nên một diện mạo mới.
  1. Đời sống văn học Việt Nam – cơ hội đến từ bên trong
          Từ góc độ thực tiễn sáng tác, có thể thấy văn học Việt Nam từ xưa đã thấm đậm tinh thần đạo đức luân lí. Đây là cơ sở lí tưởng cho phê bình luân lí học văn học phát triển. Ngự trị trong thời trung đại là quan niệm sáng tác “văn dĩ tải đạo”. Dòng chủ lưu của sáng tác thời kì đó là văn học thể hiện các phạm trù luân lí đạo đức phong kiến, ngay kiệt tác Truyện Kiều cũng không xa rời quan hệ, xung đột đạo đức. Đến những năm đầu thế kỉ 20, vấn đề lớn trong văn học lãng mạn cũng là vấn đề xung đột giữa quan niệm đạo đức truyền thống và hiện đại, vấn đề khát vọng hạnh phúc cá nhân và nền tảng đạo đức phong kiến. Văn học hiện thực phê phán cũng tập trung vào vấn đề quan hệ giữa con người và xã hội hiện thực, vào việc xử lí vấn đề đạo đức nhân phẩm trong quan hệ với hiện thực nghiệt ngã. Đến văn học cách mạng, bao trùm lên tất cả là vấn đề đạo đức cách mạng, vấn đề đạo đức của con người trong công cuộc xây dựng xã hội mới, đạo đức của con người trong ứng xử với chiến tranh, kẻ thù, chiến hữu…. Rồi văn học thời kì hậu chiến, vấn đề đạo đức trong thời kì mới được đặt ra mãnh liệt hơn, đặc biệt là khi cơ chế thị trường, đồng tiền can thiệp mạnh mẽ vào các mối quan hệ xã hội, vấn đề ứng xử với quá khứ, với những tàn dư của chiến tranh như thế nào. Điều này có thể thấy rất rõ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Chu Lai… Thực tiễn sáng tác như vậy là mảnh đất màu mỡ để phê bình luân lí học văn học phát triển. Chúng ta có thể sử dụng các thuật ngữ công cụ như ý thức luân lí, trật tự luân lí, cấm kị luân líhoàn cảnh luân lí, căn cước luân líhỗn loạn luân lítuyến luân lí chi phối, liên kết các sự kiện luân lí và xung đột luân lí. Các thuật ngữ này giúp nhà phê bình có thể thao tác được lí thuyết nhằm ứng dụng vào nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể. Từ xưa đến nay, mặc dù trải qua nhiều lần đổi mới, nhưng về đại thể, sáng tác văn học Việt Nam chưa bao giờ là những trò chơi hình thức thuần túy.
Từ thực tiễn nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam, cũng có thể nhận thấy, hiện nay là thời điểm thuận lợi để phát triển phê bình luân lí học văn học. Nghiên cứu văn học trước đổi mới chịu ảnh hướng của không khí văn học phục vụ chính trị, cho nên đã coi nhẹ bản chất thẩm mĩ của văn học. Muốn thoát khỏi không khí đó, dòng chính của nghiên cứu văn học sau 1986 là dòng truy tìm bản chất nghệ thuật của văn học, khẳng định giá trị tự thân của tác phẩm văn học. Nhưng cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21, hướng nghiên cứu nội tại tồn tại trên dưới 20 năm đã không còn giữ vị trí độc tôn nữa, bên cạnh chủ nghĩa hình thức Nga, kí hiệu học, Chủ nghĩa cấu trúc, Tự sự học, Thi pháp học đã xuất hiện Phân tâm học, Chủ nghĩa nữ quyền, Phê bình hậu thực dân, Phê bình sinh thái và sự trở lại của Mĩ học tiếp nhận. Giống như bối cảnh dẫn đến chuyển hướng luân lí học trong nghiên cứu văn học thế giới, đây cũng là cơ hội để phê bình luân lí học văn học có thể được nhìn nhận và phát triển ở Việt Nam. Ngoài ra, việc tồn tại phong phú các phương pháp phê bình khác không hề mâu thuẫn với việc phát triển phê bình luân lí, ngược lại, còn tạo điều kiện thuận lợi để phê bình luân lí phát triển. Phê bình luân lí học văn học không hề tách rời các phương pháp phê bình khác. Chẳng hạn, cũng giống như phê bình lịch sử, phê bình luân lí quan tâm đến các hiện tượng văn học, xác lập địa vị lịch sử của nhà văn, tác phẩm, cũng đặt các hiện tượng văn học vào bối cảnh lịch sử để đánh giá. Tất nhiên phê bình luân lí trong thực tiễn phê bình không thể tách rời phê bình thẩm mĩ, không né tránh các yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật. Đây cũng là xu hướng tồn tại chung của các phương pháp phê bình hiện nay. Sự phong phú đa dạng của các khuynh hướng phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay trở thành điều kiện thuận lợi để phê bình luân lí học văn học phát triển. Thành tựu của các phương pháp phê bình văn học khác sẽ được tận dụng để giúp cho phê bình luân lí luân lí làm tốt hơn nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Phê bình luân lí học văn học cũng có thể tìm thấy cơ hội phát triển trong tâm lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam. Cho dù bản thân người viết chưa có dịp tiến hành điều tra xã hội học về vấn đề thị hiếu độc giả, nhưng thông qua những tác phẩm được sáng tác, dịch thuật ở Việt Nam có thể gián tiếp thấy được vấn đề tâm lí tiếp nhận. Bởi sáng tác văn học, dịch thuật văn học trước hết là sáng tác dịch thuật cho độc giả, nếu độc giả không hưởng ứng, thì tự nhiên tác phẩm không có lí do để tồn tại và tiếp tục xuất hiện. Từ thực tiễn sáng tác và dịch thuật có thể thấy độc giả Việt Nam chưa bao giờ tỏ ra lạnh nhạt với những vấn đề thuộc phạm trù luân lí đạo đức. Đó cũng là một trong những lí do khiến sáng tác mang nhiều trăn trở về vấn đề luân lí đạo đức gia đình, xã hội, về cách ứng xử với con người với tự nhiên của Nguyễn Huy Thiệp được hưởng ứng mạnh mẽ như vậy ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay. Xa rời những trăn trở về xã hội, cuộc sống con người, trong đó có vấn đề luân lí đạo đức, những thể nghiệm hình thức thuần túy hoặc thiên sang thể nghiệm hình thức chưa bao giờ được nhiệt liệt đón nhận ở Việt Nam.
III. Kết luận
Nhìn chung, ở Việt Nam từ góc độ sáng tác, nghiên cứu văn học đến tâm lí tiếp nhận đều cho thấy phê bình luân lí học văn học có nhiều cơ hội phát triển. Không thể phủ nhận ảnh hưởng sâu sắc của luân lí đạo đức Nho giáo trong đời sống văn hóa văn học Việt Nam hàng nghìn năm. Cho nên, phát triển phê bình luân lí văn học cũng là xây dựng và vận dụng một phương pháp phê bình có thể giúp giới nghiên cứu thuận lợi hơn trong việc tìm ra đặc trưng của văn học Việt Nam so với các nền văn học khác trên thế giới, đặc biệt là văn học phương Tây. Phát triển phương pháp phê bình này cũng là một cách nhằm tránh rơi vào nghiên cứu văn học một cách khép kín, kinh viện, nâng cao trách nhiệm của người sáng tác, người đọc đối với các vấn đề xã hội, môi trường.

Chú thích:
[1] Chu Hiến(1984), Một vài khuynh hướng nghiên cứu văn học phương tây hiện đại, Tạp chí Nghiên cứu văn nghệ, số 6
[2] Clayson Booth(1987), Tu từ học tiểu thuyết, Chu Hiến…dịch, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh
[3] Clayson Booth(2009), Sự phục hưng của tu từ, Mục Lôi…dịch, Nhà xuất bản Dịch lâm
[4] Nhiếp Trân Chiêu(2014), Dẫn luận phê bình luân lí học văn học, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh
[5] Nhiếp Trân Chiêu(2006), Phê bình luân lí học văn học và phê bình đạo đức, tạp chí Nghiên cứu văn học nước ngoài, số 2, tr 9
[6] Nhiếp Trân Chiêu(2006), Phê bình luân lí học văn học và phê bình đạo đức, tạp chí Nghiên cứu văn học nước ngoài, số 2, tr 11
[7] Nhiếp Trân Chiêu(2004), Phê bình luân lí học văn học: Tìm hiểu mới về phương pháp phê bình văn học, Tạp chí Nghiên cứu văn học nước ngoài, số 5, tr 19-20.
[8] Lawrence Buell(1999), Introduction: In pursuit of Ethics, PMLA 114, tr7-19

Đỗ Văn Hiểu
(Bài đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, số 5 năm 2016, tr 53-58)

Đăng nhận xét