Search Suggest

Nhà văn có thể làm gì trong đại dịch?

 

🌿Nhà văn có thể làm gì trong đại dịch?



“Đỗ Phủ viết làm gì

Thế gian không ai biết

Hỏi làm sao Chim hót

Chim hót để làm gì…”



Đó chính là những dòng thơ đầy trăn trở của Nguyễn Phan Hách trong “Đỗ Phủ viết làm gì”. Rốt cuộc thì, Đỗ Phủ viết để làm gì? Đỗ Phủ và cả những nhà văn, nhà thơ khác vì đâu mà cứ miệt mài sáng tác, mặc cho những “Lệ và huyết mài mực”? Còn những áng văn chương liệu có thể làm được gì cho cuộc đời này, cho những kiếp nhân sinh luôn phải xoay sở từng ngày để có thể sinh tồn? Hay nhà văn, nhà thơ cứ như những con chim cất tiếng hót vô định, không đích đến, cứ hót và sống trong thanh âm của riêng mình mà bỏ quên cuộc đời? Thi nhân, có thể hay không, trước đại dịch của toàn nhân loại, cùng với các bác sĩ, nhà khoa học, cứu chữa và bảo vệ con người thoát khỏi sự lưu đày đến cõi vong thân?



Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ hai mươi, hàng tỉ người trên toàn thế giới đã cùng nhau háo hức chờ mong những bước chuyển mình tiếp theo của một thời đại mới. Năm 2020 đến cùng với những đợi chờ, ước mơ và hy vọng để rồi hơn một nửa chặng đường đã qua, tất cả những gì mà nhân loại đối mặt chính là nỗi sợ hãi, sự hoang mang - tất cả đều đến từ một nguyên nhân duy nhất: Đại dịch Covid-19. Còn nhớ đêm giao thừa hôm nào, dưới pháo bông rực rỡ, trong tiếng nhạc rộn ràng, người ta đã nghĩ 2020 là một năm mới đầy hứa hẹn để rồi chỉ một tháng sau thôi, cả thế giới như “vỡ trận” trong sự bùng phát của đại dịch. Hàng trăm rồi hàng ngàn, hàng trăm ngàn,...những con người đã chết, vì đại dịch. Mặc kệ những nỗ lực kiểm soát và cứu chữa từ đội ngũ y bác sĩ trên toàn thế giới, số lượng bệnh nhân mắc phải Covid-19 không ngừng tăng lên, kéo theo đó không chỉ là nỗi ám ảnh về bệnh tật và cái chết mà còn là vô vàn những vấn đề khác. Đó là sự tuột dốc không phanh của nền kinh tế trên toàn thế giới. Có lẽ đã rất nhiều năm qua đi, người ta mới lại nhìn thấy phố Wall điêu tàn, hỗn loạn đến vậy. Suốt năm 2020, hàng ngàn doanh nghiệp liên tục đóng cửa, dù là ở Việt Nam hay Đông Nam Á, châu Á hay châu Âu, người ta dần trở nên quen với việc những ánh đèn sáng trưng trong các cửa hiệu giờ chìm vào bóng đêm ảm đạm. Từ sự sụp đổ của nền kinh tế, con người ta rơi vào khủng hoảng tinh thần với những áp lực mưu sinh, để rồi khi Covid-19 chưa kịp tìm đến, con người ta đã vội vã chạy trốn thế giới đầy hiểm nguy vây quanh mình. Đại dịch bùng phát, kinh tế khó khăn là cơ hội cho những âm mưu lừa đảo, làm nhiễu loạn thông tin thừa cơ hoành hành. Giờ đây, điều khó khăn nhất không phải là con người làm sao để vượt qua đại dịch mà là bằng cách nào để niềm tin vào sự sống có thể duy trì. Bởi thực tế, sự đổ vỡ niềm tin vào sự sống mới là điều đưa người ta đến với cái chết nhanh nhất, nhanh hơn bất kỳ sự tàn phá của một loại bệnh tật nào trên đời!



Ở trong đại dịch, có nhiều lý do để con người ta chết đi - bệnh tật, ốm đau chính là những cái chết mà các bác sĩ đã và đang nỗ lực hết mình để ngăn chặn. Thế nhưng, những chấn thương tinh thần, những áp lực và khủng hoảng về tâm lý của con người thì sẽ do ai hàn gắn, chữa lành? Điều đáng sợ nhất khi một cơn đại dịch qua đi liệu sẽ là tổng số thương vong về người và của hay sự sống mơ hồ của hàng tỉ những người còn lại trên đời? Đại dịch chính là một hình thức của chọn lọc tự nhiên, vậy thì những kẻ còn sống ấy, là những người may mắn được chọn hay là những kẻ xui rủi tận cùng, phải sống để cảm nhận rõ ràng những dày vò từ nỗi đau mất mát? Thuốc than, trị liệu sẽ thật sự cứu chữa được họ hay chăng?



Trở lại với quá khứ, chúng ta hẳn còn nhớ đến Lỗ Tấn. Có là ngẫu nhiên hay chăng, khi một thầy thuốc như ông lại chọn trở thành một nhà văn và xem như đây là cách tốt nhất để cứu lấy người dân Trung Hoa lúc bấy giờ? Giả sử, Lỗ Tấn vẫn là một thầy thuốc, ông sẽ dùng phương thuốc nào để chữa dứt căn bệnh vô cảm, lạc hậu của đồng bào mình? Hay chính sự ra đời của hàng loạt những sáng tác từ truyện ngắn đến truyện dài, tiểu thuyết của mình, Lỗ Tấn đã không chỉ tạo tiền đề để Trung Quốc có rất nhiều những Lỗ Tấn sau ông mà quan trọng hơn hết, là chữa khỏi dần những căn bệnh quốc dân. Và không chỉ Lỗ Tấn, mà nhìn vào chính nền văn học nước ta thôi cũng thấy một đại diện vô cùng tiêu biểu đó là Cụ đồ Chiểu. Từ một thầy lang, Nguyễn Đình Chiểu tìm đến bút mực, không chỉ xem đây như một thứ vũ khí “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” mà còn là phương thuốc dành cho tâm hồn người Việt trong suốt một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Lỗ Tấn và Nguyễn Đình Chiểu, họ đã là những người thầy thuốc chữa bệnh về thể chất cho con người. Nhưng cũng là họ, cùng với những nhà văn, nhà thơ khác, đem đến những bài thuốc hữu hiệu, thiết thực hơn, dành cho tâm hồn của con người !



Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung từng viết: “Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn phải nhặt nhạnh từng mảnh vỡ, tái tạo lại chính nó, đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người”. Nhà văn - những con người bằng xương bằng thịt như bao người khác trên thế gian liệu có một phép thần thông hay chăng, mà hàn gắn lại được những đổ vỡ của cuộc đời? Đối diện với những thương tổn từ sâu trong tâm hồn người, nhà văn sẽ làm gì để từng cơn đau đớn, tuyệt vọng kia nguôi ngoai? Đối diện với ốm đau, cái chết và cả sự chia lìa, nhà văn sẽ có thể hồi sinh tất cả hay sao?



Không, nhà văn không thể xoá nhoà đi những buồn đau hay lấp đầy những mất mát của con người. Nhưng nhà văn sẽ lại là người đem cái chết ra xa khỏi họ, để người ta có thể đi qua những lần vụn vỡ, những lần thương đau. Nhà văn cho con người dũng khí để chọn lựa sự sống!



Nhà văn cứu chữa con người, trước hết bằng những sự thật. Đó là sự thật về cuộc đời và về chính bản thân của mỗi người. Như Virginia Woolf đã nói: “Văn chương không phải là liều thuốc an thần ru con người ta vào giấc ngủ uể oải mà là sắt nung bỏng rát thức tỉnh con người”. Văn chương không đẩy con người ta vào cơn mộng mị bằng những ảo ảnh về cuộc đời mà là sự soi chiếu trực diện, chân thật bản chất của thế giới. Có thể, thế giới văn chương chứa đầy những ước mơ nhưng có khi, ngập tràn nghịch cảnh, bi kịch nhưng nhất định, đó không phải là một thế giới đơn điệu, một chiều. Thế giới của văn chương là thế giới đầy giằng xé trong nội tâm của một con quỷ đội lớp người như Chí Phèo, một con quỷ luôn vẫy vùng trên lằn ranh của thiện lương và tàn độc, của một thằng rạch mặt ăn vạ “phá nát bao cảnh yên vui” và một kẻ cô đơn cùng đường luôn khắc khoải hoài nghi “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là thế giới mà một thiên tài nghệ thuật như Vũ Như Tô phải gánh chịu bi kịch của một người nghệ sĩ đơn độc sống với lý tưởng nghệ thuật rời xa thực tại để rồi trơ mắt ra nhìn giấc mộng lớn đời mình trở thành tàn tro rồi vẫn bất tin mà gào thét “Vô lý! Vô lý!” Văn chương tạo dựng một thế giới muôn hình vạn trạng trên từng trang sách, thế giới của nó vận hành với đầy những mâu thuẫn và nghịch lý thay vì minh bạch phải - trái, đúng - sai. Cuộc sống hiện lên từng trang giấy mang dáng dấp của đời thực, với vô vàn chân dung của con người, những con người bằng xương bằng thịt với mọi hỷ-nộ-ái-ố, với những khát khao lẫn tuyệt vọng, với sự thanh cao và cả những suy đồi. Thực tại và con người trong văn chương là như thế, là một sản phẩm của ngôn từ và sự sáng tạo nhưng chắc chắn không phải là những hình tượng trống rỗng, vô hồn.



Chính nhờ điều này, thay vì là những con chữ rỗng tuếch, văn chương nói như Phillipe Jacollete, đã cho người ta già đi từ đầu đến cuối bài thơ. Qua một bài thơ, một câu chuyện, con người ta như sống một cuộc đời. Mỗi lần hoà vào thế giới của văn chương là lại một lần được sống, sống những cuộc đời khác nhau. Mỗi lần bước vào trang sách là như được tái sinh, với một diện mạo, một tâm hồn mới, để trải nghiệm, để dấn thân mà ngắm nhìn cuộc đời. Sống trong trang sách, người ta có thể vỡ oà trong niềm sung sướng vì nhìn thấy những giấc mơ hoá thành hiện thực. Và cũng trong trang sách, bao giọt nước mắt đã rơi, vì hiện thực tàn khốc, vì những mộng mơ tan vỡ, vì tình yêu nhạt nhoà, vì đời người chóng vánh như một giấc chiêm bao. Để rồi, từ trong vô vàn những cảm xúc ấy, dẫu là đớn đau hay hạnh phúc, là thăng hoa hay trầm buồn, con người ta nhìn thấy thế giới này và nhìn thấy chính con người mình. Già đi mà Jacollete nói ấy, chính là sự già đi của nhận thức, không chỉ nhận thức về cuộc đời mà còn là nhận thức về bản thân của mỗi con người.



Có thể, không phải mọi độc giả cầm trên tay “Nỗi buồn chiến tranh” đều từng là những người lính, đều đã rửa máu của mình trong gió bụi nơi chiến trường như Kiên. Thế nhưng, Bảo Ninh đã dùng chính ngòi bút của mình để người đọc không chỉ nhìn thấy được bản chất chiến tranh mà hơn hết là nhìn thấy những gì chiến tranh đã để lại, không phải những miền đất chết mà là những linh hồn chết. Đi vào thế giới nội tâm của Kiên, trôi theo dòng hồi ức để soi vào những đứt gãy, những nỗi ám ảnh, những ký ức không cách nào trốn chạy và người ta hiểu được rằng, thứ chiến tranh cướp đi không phải là mạng sống mà là ý chí để sống, chiến tranh có thể buông tha cho sinh mạng con người nhưng không chối từ việc tước đoạt đi ý thức tồn tại. Những con người trở về từ chiến tranh, cũng giống như chúng ta, đi qua một cơn dư chấn ầm ĩ trong nội tâm và vĩnh viễn, không thể trở lại như ban đầu, vĩnh viễn phải sống, phải chịu đoạ đày bởi vết thương không bao giờ khép miệng kia. Người ta đọc văn chương có thể biết được sự đổ nát của thế giới sau một cuộc chiến tranh, cũng như một cơn đại dịch, nhưng quan trọng hơn hết chính là nhìn thấy được sự suy sụp của lòng người và sự lạc lối, vô định đến hoang mang trong chính tâm hồn mình.



Văn chương đem đến cho con người ta sự nhận thức, không phải để chấp nhận những gì đã có và đang có, không phải để thừa nhận một lần nữa những điều đang diễn ra. Giá trị thực sự của văn chương chính là dùng sự thật để con người ta vượt qua chính sự thật đó. Phơi bày ra trước mắt con người ta một thế giới tàn khốc với đầy những rạn nứt, nhà văn không dồn con người đến bước đường bi quan, trốn chạy hay chối bỏ nó mà muốn con người ta dũng cảm đối diện, đi qua và khắc phục nó. Nói như Aristote, bi kịch là một sự thanh lọc. Văn chương dùng hiện thực và bi kịch bên trong nó, dùng những gì con người muốn khước từ, né tránh để thanh lọc thế giới. Sự thanh lọc đó xuất phát từ cách văn chương phản tính con người bằng sự thật để rồi trở thành ngọn đèn định hướng cho con người nhìn ra những ngã rẽ mà mình có thể bước đi. Ở đó, người ta nhìn thấy vô vàn những chọn lựa, chọn lựa để sống và chết, chọn lựa để hy vọng rồi đổi thay và cả những chọn lựa để tiếp tục lụi tàn cùng thực tại tăm tối. Văn chương không giáo điều, dạy dỗ hay cưỡng cầu, ép buộc, nó cho con người ta nhìn thấy thật nhiều những khả năng còn con người thì liệu có một ai đâu, chọn lựa những điều tồi tệ?



Viết về “thế hệ mất mát” với những tiệc tùng xa hoa hoà trong điệu jazz man mác, trầm tư, Francis Scott Key Fitzgerald đã đưa người đọc bao thế hệ trở về với thập niên 20 của thế kỉ trước qua kiệt tác “Đại gia Gatsby”. Câu chuyện là cuộc chạy đua của con người với sự leo thang của bạc tiền; là những “đổi chác, bán buôn” mà cái giá để có được địa vị, quyền quý là chính hạnh phúc của cả một đời người. Con người thuộc về thời hậu chiến đã phải đánh mất mình vì những “đốm xanh” phù phiếm mà ngay cả khi “nó đã tuột khỏi tay chúng ta” thì “chúng ta cứ thế dấn bước, những con thuyền rẽ sóng ngược dòng, không ngừng trôi về quá khứ”. Mỗi người đều như Gatsby, mang trong mình những khao khát, đam mê và thậm chí là cuồng vọng để rồi rong ruổi chạy theo giấc mơ của mình trong cơn mộng du. Vậy thì, ta sẽ chọn chứ, một cuộc đời như Gatsby, một cuộc đời cứ mải miết chạy theo cái đốm xanh xa xôi, hão huyền? Ta sẽ chọn chứ, những ảo mộng đã nát tan từ dĩ vãng xa xưa? Gatsby chết đi giữa những dở dang, vỡ mộng, vậy còn ta, liệu có tiếp bước để trở thành nạn nhân từ chính những ước mơ của mình. Đó là chọn lựa của ta, ta có thể chọn như Gatsby nhưng ta cũng có quyền nhìn vào Gatsby để làm khác đi, để sống hạnh phúc hơn, trọn vẹn và ý nghĩa hơn. Bằng cách ấy, văn học đã thanh lọc ta, thanh lọc và cảm hoá từ chính những điều bi thảm nhất.



Như đã nói, văn chương muốn cứu rỗi con người, không nằm ở việc thay đổi quy luật sanh-lão-bệnh-tử, nhà văn chữa trị cho nhân gian không thể hiện ở việc cải tử hồi sinh cho con người. Sự cứu chữa của văn chương là sự cứu chữa đối với tâm hồn, với thế giới nội cảm của con người. Bởi lẽ, văn chương dù là thể loại nào, từ những bài ca dao than thân của những người lao động lam lũ đến những khúc sử thi bất hủ của Homer, từ những câu chuyện cổ tích quen thuộc với những đứa trẻ con cho đến những tác phẩm đồ sộ của Lev Tolstoi, tất cả không chỉ làm nên bởi tư tưởng của nhà văn mà cần hơn hết là tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Đó mới chính là linh hồn, là sợi dây kết nối văn chương với thế giới. Chính những tâm tư tình cảm này mà văn học mới chạm đến được đời sống nội tâm của người đọc, để cho con người ta có thể tin tưởng mà mở lòng mình ra đón nhận những sáng tác này. Văn chương đi từ tâm hồn người viết đến trái tim người đọc, xoa dịu và chữa lành những ưu tư, muộn phiền lẫn niềm đau, thương tổn. Văn chương tạo dựng được niềm tin trong lòng người, niềm tin giữa con người với thông điệp mà tác phẩm gửi gắm, từ đó phát triển thành niềm tin giữa con người đó với thế giới mà họ đang sống. Cuối cùng, văn chương tạo dựng niềm tin giữa con người với con người, nhờ sự thanh lọc, nhờ những điều tốt đẹp, nhờ hy vọng, ước mơ. Niềm tin đó trở thành động lực, giống như cách Scarlett O’hara đã luôn nói “Sau tất cả, ngày mai sẽ là một ngày mới”, một ngày mới và tất cả sẽ tốt hơn, một ngày mới và đống hoang tàn trước mắt sẽ thành quá khứ, một ngày mới - chỉ cần tin như vậy thì sẽ lại nhìn thấy khởi đầu, nhìn thấy những điều tốt đẹp. Có như vậy, con người ta can đảm chọn lựa cuộc sống dẫu có đi qua bao nhiêu biến cố, thăng trầm. Niềm tin gắn kết con người với sự sống. Bệnh tật có thể tước đoạt đi một thể chất khoẻ mạnh, có thể dày vò người ta bằng những cơn đau thể xác. Thế nhưng, chỉ cần tinh thần của con người còn có niềm tin vào những điều tốt đẹp, vào sự sống, tương lai, có niềm tin vào chính nội lực sinh tồn của mình thì sự sống vẫn ở đó. Con người có thể chết đi nhưng niềm tin và khao khát sống sẽ ở lại, để lan toả, tạo thành động lực và cũng là niềm tin cho những người còn sống mai sau.



Không phải là cơn đại dịch đầu tiên mà nhân loại phải trải qua, nhưng điều đó không đồng nghĩa rằng bảy tỉ người trong chúng ta có thể bình thản mà đối diện với nó. Đại dịch xuất hiện, con người phải gánh chịu rất nhiều hậu quả và dư chấn mà nó để lại, tất cả có thể trở thành những mất mát, những vết thương không bao giờ liền miệng trong nhận thức của chúng ta. Những đau thương đó, rồi sẽ hoá thành ký ức nhưng chúng ta cũng không cách nào xoá nhoà nó đi, chúng ta chỉ có thể tiếp tục sống cùng nó, xem nó là một phần bên trong mình nhưng ngừng cảm thấy đau đớn, buồn rầu. Và để đối mặt, chấp nhận rồi sống cùng những vết thương bên trong mình, chúng ta có văn chương, có nghệ thuật, như một chỗ dựa luôn luôn đồng điệu, luôn luôn thấu hiểu. Đó cũng chính là lý do, chúng ta cần đến những người nghệ sĩ, những người mang lĩnh nỗi buồn cùng nhân gian và nâng đỡ con người, đi qua những cuộc bể dâu.



🌿NGUYỄN ĐỨC LAM THẢO



#baiviethocsinh_blogchuyenvan

#liluanvanhoc_blogchuyenvan

 


Đăng nhận xét