Search Suggest

Bài viết | Những cuộc đối thoại trong văn học

 


        Đề bài: Giáo sư Huỳnh Như Phương cho rằng:



“Mỗi lần đọc
là một lần khám phá ra thế giới nghệ thuật ở chiều sâu như nguồn
nước không ngừng tuôn trào của nó. Đó thực chất là một cuộc đối
thoại giữa lịch sử và hiện tại, giữa thế hệ hôm qua và hôm nay,
giữa nền văn hóa này với một nền văn hóa khác.”



          Bằng sự trải nghiệm của bản
thân, anh chị hãy trình bày suy nghĩ về những cuộc đối thoại trong
văn học



                                              Bài
làm



Lorca yêu quý, người từng nói: “khi tôi chết
hãy chôn tôi với cây đàn”…



Nhưng thanh âm ấy chưa bao giờ lặng im, tiếng
đàn vẫn mãi ngân nga trong con người Tây Ban Nha mỗi bình minh đến.



Bởi nghệ thuật không phải sinh ra để chờ đợi
ngày hòa tan vào cát bụi. Nghệ thuật là một điều kỳ lạ mà giáo sư Huỳnh Như Phương nghĩ suy: “Mỗi lần đọc là một lần khám phá ra
thế giới nghệ thuật ở chiều sâu như nguồn nước không ngừng tuôn trào
của nó. Đó thực chất là một cuộc đối thoại giữa lịch sử và hiện
tại, giữa thế hệ hôm qua và hôm nay, giữa nền văn hóa này với một
nền văn hóa khác”. Tiếng ghi-ta của Lorca sống mãi, có lẽ vì nó
đọng lại trong lòng người, cuộc đối thoại muôn đời. 



Khi cuộc sống dần lặng im bởi tình người
lạnh lẽo, những tác phẩm văn học vẫn nhịp nhàng thoi đưa thứ thanh
âm, không cầu kỳ như khúc nhạc đêm vũ hội, mà say mê bởi chất đời
của tiếng nói đối thoại. Huỳnh Như Phương với bao lần trầm mình vào
trang văn hiểu rằng: thưởng thức tác phẩm là tìm đến cái mạch nguồn
sâu thẳm, nơi dòng suối của những tư tưởng, cảm xúc ồ ạt tuôn trào.
Song giáo sư đã gọi tên, khái quát hóa chiều sâu ấy không gì
khác chính là bản chất của những cuộc đối thoại. Đó là cuộc đối
thoại văn chương mang tính rộng mở, kết nối giữa “lịch sử và hiện
tại”, giữa “thế hệ hôm qua và hôm nay”, giữa “nền văn hóa này với
một nền văn hóa khác”. Suy cho cùng, Huỳnh Như Phương đã chỉ ra điều
quan trọng, vừa là bản chất của văn học, vừa là yêu cầu cho quá
trình sáng tác và tiếp nhận: hãy để mỗi tác phẩm là tiếng nói
cất lên giữa người với người, vượt qua mọi lằn ranh của thời gian.



Những cuộc đối thoại, tiếng đàn ơi, hãy cứ
mãi ngân vang…



Đứng trước một quãng trời xanh, người ta khó
tránh khỏi niềm xao động bồi hồi, trước một tác phẩm hay, người ta
khó tránh khỏi mong muốn buông lời yêu thương. Sự đối thoại âu là
điều tất yếu trong văn chương, nó cho thấy độc giả đã trải qua những
gì và khao khát điều gì khi khép lại tác phẩm. Những giọt nước mắt
hãy còn nóng hổi, khi dư âm còn vương tơ nơi trái tim, người đọc khát
khao đối thoại như muốn khắc vào cái trụ trời vĩnh cửu của Tạo
hóa, lời tri âm đến người cầm bút. Nguyễn Tuân đã bộc bạch cảm nhận
khi đọc văn Thạch Lam “ tôi cứ nghĩ như đó là một người tính tình
nhẹ nhàng tinh tế, từng trải sự sống ở một số mặt sống…”.Nhưng cái
lay chuyển vô thanh ấy nơi tâm hồn không đơn thuần mà có được, người
đọc không thể chỉ ngửi lấy hương thơm phảng phất trong con chữ rồi
quay đi. Vì thứ rượu tuyệt hảo đang chờ đợi người đến thưởng thức ở
phía sau trang giấy, nơi vô hình trên bề mặt mà dạt dào chứa đọng ở
bề sâu. “Mỗi tác phẩm là một tiếng gọi” (Sartre) chân thành, nồng
nhiệt như tiếng gọi của người bạn hiền, thôi thúc những kẻ ghé thăm
đặt chân mình vào cái thế giới lặng lẽ, giữa những khoảng trắng
ngôn từ.   



Người ta thường nói, thơ của Hàn sao mà ám
ảnh, mà nồng nặc máu và trăng. Nhưng tôi cho rằng, thứ đặc lại làm
nên khối ám ảnh trong lòng người hơn cả, ấy là nỗi cô đơn khi chơi vơi
giữa cõi đời mà thi nhân yêu thương nhất:



                             “Cơn gió lập đông buốt lạnh lùng



                             Tứ bề gom lại một cõi không



                             Lặng
nghe – Tôi nhé, nghe tôi khóc



                             Hiện
hữu mà chi? Chỉ nghẹn lòng

     



Những cảm xúc như tiếng lặng dần, lặng dần,
rồi chợt vút lên khỏi khuôn khổ con chữ, nén vào lòng người cái gì
đó đầy khắc khoải, tựa một lời van xin. G
iữa những trơ trọi của
mảnh hồn cô đơn, niềm khao khát “Lặng nghe – Tôi nhé, nghe tôi khóc”
nấc lên, từng giọt lệ rơi xuống. Phải chăng, đó cũng chính là tiếng
gọi mời những cuộc đối thoại vang lên từ sâu thẳm cõi lòng Tử ?  
 



          “Lặng nghe – Tôi
nhé, nghe tôi khóc...”



Một nhà thơ đã tâm tình về sức sống của thi
ca “Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vần
thơ”. Vượt qua muôn ngọn trùng khơi, từ lịch sử cho đến hiện tại,
mãnh liệt và xúc động là những điều vẫn vẹn tròn trong văn chương,
trong mỗi con chữ vần thơ. Cái âm vọng dồn nén trong câu văn xa xưa
vọng về với tâm thức của mỗi chúng ta thực tại, khiến tôi liên tưởng
đến cách mà Jack London đã miêu tả tiếng kêu của loài sói trong “Tiếng
gọi của hoang dã”, ấy là “nỗi đau của sự sống đã từng là nỗi đau
của những tổ tiên hoang dã của nó xưa kia”. Phải chăng những cuộc đối
thoại trong văn chương cũng như thế, nó giúp ta nếm trải cái dư vị
thoảng qua của đời sống, thời đại cha ông ta ngày trước? Bước qua
chiếc cầu văn chương bắc ngang, con người như được ngược về những miền
đất của hồi ức, để ngắm nhìn những trang lịch sử thiêng liêng hiện
ra trước mắt. Tìm về những bài thơ được khắc trên các vách đá cổ,
ta như được tìm thấy giây phút khi trái tim loài người biết rung động
trước cõi đời quanh mình. Cho đến hôm nay, khi nhìn lại những chặng
đường theo dòng lịch sử của văn học, xuất phát từ những câu ca dao
làm quyến luyến lòng người bởi chất men đời, những áng thơ trung đại
đậm sắc dân tộc, sự ra đời của các trào lưu như thơ mới và nền văn
học kháng chiến vĩ đại, có lẽ đã trở thành cái khơi nguồn cho những
cuộc đối thoại đầy hoài niệm trong thực tại. Tính quảng đại của văn
học cho phép con người tìm thấy bóng hình đồng điệu của mình trong
tất cả những chặng đường ấy, vì lẽ những vấn đề nhân sinh của con
người không phải mới xuất hiện gần đây, mà đã tồn tại từ rất lâu
trước đó. Đối thoại cùng những tuyệt tác “vang bóng một thời”, mỗi
người có dịp chiêm nghiệm sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống từ nhiều
góc độ, hóa thân vào những số phận đã góp mình vào dòng chảy mênh
mông mà như Eptusenko viết: “Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”. Nếu
ngược về quá khứ mang đến cho ta những trải nghiệm thẩm mỹ đầy cổ
điển thì từ nơi bắt đầu của lịch sử, không ít những tác phẩm đã
dội đến thế giới hiện đại những tư tưởng đi trước thời gian, những
tầm nhìn đã mở ra viễn cảnh của tương lai từ xa xưa. “Thời gian qua
kẽ tay/Làm khô những chiếc lá” (Văn Cao), nếu thời gian cuộc đời làm phôi pha
vạn vật trong quy luật quá khứ – hiện tại – tương lai, những cuộc đối
thoại văn chương khiến cho thời gian ấy như co dãn một cách nhịp
nhàng, để lịch sử và hiện tại hòa trộn vào nhau, se duyên gắn kết
cho muôn kẻ tri âm, tri kỷ.



Lời mẹ ru ngọt ngào mà tha thiết, lòng ta
chợt ùa về câu ca dao thuở xưa, những câu ca như dòng sữa trắng ngần
đắp nên tâm hồn con người Việt:



                   “Yêu
nhau mấy núi cũng leo



                   Mấy
sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”



Từ rất lâu, câu ca dao đã dạy anh “yêu em từ
thuở trong nôi”, dấy lên ý thức trong mỗi cá nhân về tình yêu và biết
hy sinh vì tình yêu ấy. Dù gian nan cách trở, con người vẫn không ngại
vượt qua mọi thách thức để thu vào ánh nhìn hình bóng người mình
yêu. Đồng tình với quan niệm mà ca dao – văn học dân gian đưa ra, Nguyễn
Du để cho nàng Kiều chủ động tìm đến tình yêu của mình, một cách
đầy táo bạo:



                   “Cửa
ngoài vội rủ rèm the



                   Xăm
xăm băng lối vườn khuya một mình”



Thế nhưng, nhà thơ Nguyễn Bính đã tạo nên
những góc nhìn mới trong cuộc đối thoại xuyên thời gian ấy, khi đã
biến tấu hình ảnh những “ngọn đèo”, “con suối” thành những vần thơ
đầy ý tứ:



                   “Nhà
em cách bốn quả đồi



                   Cách
ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng



                   Nhà
em xa cách quá chừng



                   Em
van anh đấy, anh đừng yêu em!”



Thoáng qua, có cảm tưởng như cô gái đang khước
từ trước tình yêu của chàng trai, song nếu cảnh vật trong câu ca dao ngày
càng tăng tiến về độ lớn của không gian “mấy núi”, “mấy sông”, “mấy
đèo” thì câu thơ của Nguyễn Bính, những khoảng cách như dần hẹp lại
để nghe rõ hơn tiếng người mình yêu “bốn quả đồi”, “ba ngọn suối”,
“đôi cánh rừng”. Có thể thấy, sự đối thoại tạo nên cái đa thanh đa
điệu của văn chương, khiến cho cùng một đối tượng, sự vật nhưng lại
có những cách suy tư, cảm nhận và cách đưa vào sáng tác rất khác
theo sự chảy trôi của từng thời kỳ lịch sử. Xét về đề tài trong
bầu không khí trận mạc, thơ ca trung đại bày tỏ sự dứt khoát của
chí làm trai, một khi ra đi thì coi nhẹ mọi duyên nợ tình cảm:



                   “Chí
nhớn chưa về bàn tay không



                   Thì
không bao giờ nói trở lại



                   Ba
năm mẹ già cũng đừng mong”



                                                          (“Tống
biệt hành” – Thâm Tâm)



Trước khát vọng cống hiến vì nghĩa lớn,
“chí tang bồng” của người ra trận như đoạn tuyệt với tất cả, dù cho
đó là tình cảm mẫu tử máu mủ ruột thịt. Song trong văn học thời kỳ
kháng chiến 1945, lý tưởng ấy vẫn được bộc lộ sáng ngời trên những
vần thơ, nhưng nay đã thấm đẫm, man mác day dứt của những điều không
nỡ:



                   Gió
nói tôi nghe những tiếng thì thào



                   Khi
tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…”



                                                (“Cuộc
chia ly màu đỏ” – Nguyễn Mỹ)



Tự những lời thơ đã ngầm đối thoại cùng
nhau, đã tranh luận hay đồng tình, nhưng qua đó càng làm nổi bật sức
sống dạt dào của văn chương là điều duy nhất mà vũ trụ ban tặng cho
sự bất tử. Chính hơi thở căng tràn ấy làm cho văn chương từ lịch sử
đến hiện tại rộn rã thanh âm của những cuộc đối thoại, bàng bạc
khắp tận cùng những trang văn, lời thơ.   



“Các triều đại bể dâu nhưng thi cảo trường
tồn



Anh lập công trên dòng ngôn ngữ ấy



Bạch Đằng anh là cắm cọc vào thời gian nước
chảy



Cho ngàn năm sau vầng trăng tiếng Việt mãi
còn”



                                                                             (Chế
Lan Viên)



Cái chết của Lorca có thể làm cuộc đời mất
đi một người nghệ sĩ, nhưng không thể khiến vũ trụ nghệ thuật mất đi
một tiếng đàn. Cũng như những giai điệu của Beethoven hay Mozart, cái
chết không thể đóng băng âm thanh của phiếm đàn khi loài người vẫn còn
khao khát được đối thoại cùng nó nơi tâm hồn. Bởi đó là những tác
phẩm nghệ thuật chân chính, là những uranium còn sót lại qua tấm
màng lọc khắc nghiệt của thời gian. Một lớp người đi qua là sự tiếp
nối của những hạt mầm đời sau, anh ra đi để lại cho nghệ thuật những
tác phẩm mà em anh, con cháu anh từ miền đất của ngày mai ấy sẽ gửi
đến anh – con người của quá khứ những lời trở trăn khôn nguôi. ““Bống
bống bang bang”… Sẽ có người đến bên hồ mà gọi thơ anh/ Câu thơ trồi
lên, đáp lại tiếng gọi mình” (Chế Lan Viên)
. Có được những cuộc đối thoại vượt lên trên
sự hữu hạn của đời người, tác phẩm ấy cần chứa đựng những giá
trị mà dù tồn tại trong thời đại nào, dù rơi vào tay ai vẫn vẹn
nguyên những ý nghĩa của nó. Đó là một tác phẩm dạy con người ta
“nhìn bằng con mắt thật” (Lưu Quang Vũ), giúp người đọc đứng từ thời
đại này mà trải qua cuộc đời ở thời đại kia. Chỉ có cuộc sống mới
có thể đối thoại cùng cuộc sống, sự phản ánh càng cặn kẽ bao nhiêu
sẽ càng nhận về sự phản hồi từ những xúc cảm chân thực bấy nhiêu.
Lenin bày tỏ cảm nhận về những tác phẩm của LevTolstoy đã ảnh hưởng
lớn lao đến thời đại của ông cũng như phong trào của giai cấp vô sản
trên thế giới, vì sáng tác của văn hào không gì hơn chính là “tấm
gương phản chiếu cách mạng Nga” sinh động nhất. Và anh càng không thể
đòi hỏi độc giả mai sau sẽ cùng anh đối thoại nơi trang giấy nếu tác
phẩm chỉ là cái tình cảm vỡ vạc từ mảnh đất khô cằn mà không làm
sáng bừng lên một tư tưởng, ý niệm nhân sinh nào đó. Còn nhớ mãi
Nguyễn Du khi viết “Truyện Kiều” đã không ngần ngại mà phô bày quan
niệm mới mẻ về chữ “trinh”:“Như nàng lấy hiếu làm trinh/ Bụi nào cho
đục được mình ấy vay?”. Nhưng không dễ để chấp nhận góc nhìn ấy vào
thời kỳ trung đại, Nguyễn Công Trứ trong quá trình tiếp nhận bày tỏ
tư tưởng đối lập “Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”. Điều đó cho
thấy giá trị tư tưởng của một tác phẩm quyết định sức đối thoại
của độc giả dành cho sáng tác nhà văn ấy. Dù là người viết hay
người đọc, mỗi cá thể đều sở hữu nhân sinh quan, những quan niệm
riêng biệt làm nên sự đồng tình hay mâu thuẫn trong những cuộc đối
thoại, lí giải về tác phẩm. Nhìn vào bản chất, cái làm nên sự
cách biệt giữa các thời đại còn gì hơn là những đổi thay trong tư
tưởng, góc nhìn của con người mỗi thế hệ. Nhờ đó mà văn chương là
chuyện muôn người, muôn thời đại, nhân loại cứ thế mà truyền tay nhau
cái trang giấy đã làm bao trái tim rung động nghẹn ngào.  Lịch sử đi vào tâm hồn con người mai sau
bằng chất cứng rắn của một sự thật không thể thay đổi, nhưng khiến
cho tâm hồn con người hòa tan vào những xúc cảm mềm mại trong tim, ấy
có lẽ là những tác phẩm nghệ thuật. 



“Trăm ngàn kiếp lệ cuốn theo sông/ Biển chứa
long lanh sóng vạn trùng” (Xuân Diệu), phải chăng văn chương là dòng
chảy đã trải qua hàng lệ của độc giả bao đời mà góp nên?



Niềm xúc động trước nghệ thuật là niềm xúc
động trước cái đẹp cao cả, nhưng vẻ toàn mĩ ấy có còn thiện chân
khi sức sống của nghệ thuật sinh sôi trên cái chết, máu thịt của con
người? “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải?”,
đã bao đời người đọc trầm mình trong cái vang vọng khắc khoải ấy,
làm dội đến mai sau thanh âm của cuộc đối thoại không hồi kết. Ở thế
hệ trước, không ít những độc giả thể hiện thái độ đồng tình với
hành động phản kháng của nhân dân, bởi dựa trên quan niệm căn cốt
Nguyễn Trãi đưa ra “Hòa bình là gốc của nhạc”, tức cái điểm tô nên
vẻ đẹp của non sông không gì hơn là quốc thái dân an. Nhưng tiến dần
về hạ nguồn của dòng thời gian, khi các quan niệm về sáng tạo nghệ
thuật được đề cao, phó giáo sư Phạm Vĩnh Cư đã tự hỏi trong bài bàn
luận của ông: “vì sao khi dân chúng và binh sĩ nổi dậy đốt Cửu trùng
đài, giết Vũ Như Tô, chúng ta lại đau xót đến thế?”. Cuộc đối thoại
của văn chương tựa làn nước chuyển mình nhịp nhàng, chảy trôi qua ý
thức hệ mà con người của từng thời đại cho là đúng với tác phẩm.
Và có lẽ, cuộc tranh luận để tìm ra đáp án cho câu hỏi “Vũ Như Tô
đáng tội hay đáng sống?” sẽ còn được người đọc nhiều đời sau trăn
trở mãi. Tôi chợt nhớ đến nhà thơ Quang Huy, người đã đối thoại cùng
nhà văn Nam Cao qua sáng tác “Nỗi niềm Thị Nở”:



                             “Thôi rồi, đắt lắm tiết trinh



                             Hồn em nhập bát cháo hành nghìn
năm”



Luồng ý kiến của một số người đọc cho rằng
hành động của Thị Nở là dở hơi, là quá tàn nhẫn khi rũ bỏ đi tình
yêu với Chí, nhưng ngòi bút Quang Huy đã đưa những góc khuất ra ánh
sáng, lấy nỗi lòng của Thị mà bênh vực cho chính Thị. Sự đối
thoại, nhất là giữa những con người cùng ý thức về các giá trị
nghệ thuật còn hình thành sự đồng sáng tạo giữa người sáng tác và
độc giả. Nhà thơ đã khơi lên từ cái bề sâu những tầng ý nghĩa nơi
trang giấy, điều mà chính Nam Cao cũng không đề cập chi tiết, đó
chính là góc nhìn về “trinh tiết”, về những nỗi lòng của Thị. Trong
xã hội của làng Vũ Đại ngày ấy, liệu có mấy ai chấp nhận người
đàn bà như Thị, chưa chồng mà đã có con? Nguồn cơn cho quyết định
quay lưng với Chí xuất phát từ lời nói của người bà cô hay cũng
chính là những định kiến khắc nghiệt mà người đời không ngừng chỉ
trích, lên án với tình yêu của Thị. Nhưng có lẽ, chúng ta quên mất
rằng dù người đời nhìn Thị ra sao, như một kẻ xấu “ma chê quỷ hờn”,
thì bản chất trong Thị vẫn chỉ là một người phụ nữ yếu mềm, cũng
cần được sự chở che mà thôi. Và từ thế hệ sau, nhà thơ Quang Huy đã
cất lời đồng cảm với số phận bất hạnh của con người ấy, đã để Thị
làm trung tâm cho góc nhìn của thời đại mới. Ở đó, “Hồn em nhập bát
cháo hành nghìn năm”, điều sẽ mãi dâng tràn theo năm tháng là tình
yêu bao dung, là bát cháo hành nghi ngút khói đến cay mắt hay cũng
chính là cái thiên chức thật đẹp của người phụ nữ trong Thị, là
vòng tay đã dìu dắt Chí trở về với bao khát vọng lương thiện. Bước
vào những cuộc đối thoại, có cảm tưởng rằng văn chương chính là ánh
tia chớp đã hàn gắn sự sống và cái chết trên cùng bầu trời, để
nhà văn – độc giả dù thuộc thế hệ nào đều có quyền cất vào bầu
trời chung ấy, những tiếng nói làm nên sức sống bất diệt của ngôn
từ.



Thời gian như lặng nhịp thoi đưa trước tiếng
đàn, nhưng còn không gian? Tiếng đàn khiến cho bề mặt của địa cầu
trở nên vô nghĩa, vì không gì có thể ngăn cản được âm vọng của nó
đến với trái tim …



Thi sĩ Chế Lan Viên cảm
thức về những cuộc đối thoại của văn chương: “ Nó viết ở kinh tuyến
này và rung động trào sôi ở kinh tuyến khác/ Trong dân tộc và ngoài
dân tộc”. Nếu nói văn chương đã phá vỡ những lằn ranh, có lẽ đó
chính là lằn ranh ngôn ngữ. Bao đời nay, những tác phẩm văn học nối
tiếp nhau ra đời, bất kể châu Á hay châu Âu, màu da hay tôn giáo đều
được nhân loại hân hoan đón nhận. Nhưng điều làm nên những cuộc đối
thoại lan rộng về không gian và thời gian, không thể không kể đến chất
vàng riêng biệt tồn đọng trong lịch sử, nền văn hóa của mỗi quốc
gia, dân tộc. Nung nấu từ trong lòng đời sống, mỗi tác phẩm sinh ra thừa
hưởng dòng máu ngầm chảy nơi hiện thực, vì thế nó bắt trọn tất cả
những sự kiện diễn ra của thời đại. Quy luật bất di bất dịch này
tưởng chừng sẽ đánh đồng văn chương là một công cụ phản ánh khô khan,
nhưng do mỗi dân tộc trải qua một công cuộc đấu tranh và xây dựng khác
nhau làm hình thành những bản sắc văn hóa không trộn lẫn. Chính yếu
tố ấy khiến cho các tác phẩm sở hữu những nét mà có thể với quốc
gia này, nền văn hóa này, đó là điều bình thường nhưng lại tạo nên
làn sóng tranh luận khi tác phẩm du nhập vào nền văn hóa khác.  Tuyệt bút “Nhà giả kim” in đậm màu sắc
của triết học Đông phương, hướng niềm tin con người về Thượng đế, vũ
trụ khi lan rộng khắp thế giới từng bị không ít lời chỉ trích, cho
rằng tác phẩm là sự huyễn hoặc, ảo tưởng phi thực tế. Nhưng với
những ai am hiểu sâu sắc về nền minh triết Đông phương kỳ diệu sẽ
thấy rằng “Nhà giả kim” là lời chỉ dẫn linh thiêng đối với vận mệnh
mỗi con người. Bên cạnh cuộc tranh luận, những nền văn hóa đa dạng song
cũng có nét tương đồng sẽ làm nên sự đồng tình trong đối thoại nói
riêng và ảnh hưởng, tác động đến quá trình sáng tác lẫn nhau nói
chung. Nơi tinh cầu với “ hàng triệu câu chuyện được viết ra dưới vòm
trời này” ( Nguyễn Ngọc Tư), tác phẩm văn học mang trong mình sứ mệnh
một người phát ngôn, của nền văn hóa này đối thoại với nền văn hóa
khác.



Và chính lớp bụi mờ bay
lên từ những đặc sắc của nền văn hóa sẽ làm rung chuyển sâu sắc đến
nhận thức, góc nhìn của từng người cầm bút. Nói đến hai nền văn
hóa, ta có thể hình dung đó là cuộc đối thoại giữa hai nhà văn với
hai phong cách nghệ thuật khác biệt. Mỗi nhà văn, dưới sự nhào nặn
từ nền văn hóa dân tộc, sự chắt chiu vốn trải nghiệm sẽ hình thành
nên chất riêng trong sáng tác, dù cùng viết chung một đề tài. Viết
về tình yêu, Xuân Diệu bày tỏ một cảm giác mơ hồ khó tả “Làm sao cắt
nghĩa được tình yêu!/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều”. Thế nhưng,
những rung cảm trước ngọn sóng tình yêu lại được cụ thể hóa, tạo
cho một dáng hình có thể nhìn thấy bằng mắt qua lời thơ của thi sĩ
Ấn Độ Tagore: “tình yêu ấy là ánh vàng nhảy múa trên lá cây, trên
đám mây lờ lững lang thang khắp bầu trời, trên gió nhẹ lướt thoảng
qua làm vầng trán mát rượi”. Nhìn vào những vần thơ mà hai thi sĩ
đã dâng hồn mình cho tình yêu, điểm khác biệt được thể hiện rõ từ
đôi mắt lí giải về tình yêu cho đến cách thức trình bày. Tất cả khi
đặt trong sự đối sánh gợi nên cuộc đối thoại
, ở đó tình yêu hiện ra không mang màu sắc tẻ nhạt
mà được cảm nhận nhiều chiều, làm phong phú hơn định nghĩa về tình
yêu trên thế gian.
Và những cuộc
đối thoại xuyên không gian cứ thế tiếp diễn như minh chứng cho ý nghĩa
cao đẹp của văn chương: những tác phẩm nghệ thuật không bao giờ có
biên giới. Tựa những cánh hoa bồ công anh theo làn gió bay đến chân
trời xa, tôi tin rằng không ít những tác phẩm văn chương Việt Nam đã
hòa mình vào làn gió ấy, gợi sự đồng cảm, đối thoại trong cộng
đồng người đọc khắp thế giới. Ngòi bút Bảo Ninh khắc sâu những ám
ảnh về chiến tranh Việt Nam vào lòng nhân loại qua tác phẩm “Nỗi
buồn chiến tranh”, quyển sách đã được Gunter Giesenfeld – giáo sư văn
chương người Đức ngợi ca: “Tôi cho rằng, tiểu thuyết của Bảo Ninh thậm
chí hay hơn “Phía Tây không có gì lạ””. Nhiều nhà văn nước ngoài đã
nặng tình với những áng văn, tập thơ Việt Nam, góp vào cuộc đối
thoại của văn chương những thanh sắc diệu kỳ. Nhà thơ người Mĩ Martha
Collins nhận xét rằng: khi thưởng thức thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn
Quang Thiều, bà được trao một cái thoáng nhìn vào đời sống Việt Nam
mà tất cả những gì bà đọc từ lịch sử nước này chưa hề mang đến. Lặng
nghe những thanh âm náo nức trong phiên chợ ấy, văn chương mang lại cho
con người cơ hội lên tiếng, để đáp trả những lời mời gọi, những
tiếng yêu hay tiếng giận phía bên kia vòm trời mà có thể ta chưa
thấy, nhưng đã cảm nhận trong trái tim mình.



Như vậy, giáo sư Huỳnh Như Phương đã đưa
ra những quan niệm xác đáng về bản chất của văn học – những cuộc
đối thoại nơi trang giấy, từ đó giúp ta nhận ra những yêu cầu bức
thiết đối với nhà văn – chủ thể sáng tác và độc giả – người tiếp
nhận. Bằng vốn sống phong phú, cái tâm và cái tài của mình, nhà văn
cần cho ra đời những tác phẩm có chiều sâu, hàm chứa những giá trị
nhân văn, giàu sức gợi. Có như vậy anh mới tạo nên tiền đề cho những
cuộc đối thoại phi thời gian, không gian của văn chương. Và để đối
thoại thì không thể chỉ riêng nhà văn, bạn đọc cần khám phá tác
phẩm “ở chiều sâu như nguồn nước không ngừng tuôn trào của nó”. Khi
ấy, mỗi tác phẩm sẽ thực sự là một cánh cổng, dẫn lối ta đến với
những buổi đàm thoại của tâm hồn.



Li-la li-la li-la…



Tựa thứ thứ thanh âm căng mình trên dây đàn
của Lorca đã khiến hồn người Tây Ban Nha suốt bao thế kỷ hòa quyện
trong tiếng đàn vỡ tan bọt nước, những tác phẩm văn học sinh ra mang
trong mình thiên chức của vị sứ giả, như một người nghệ sĩ Lorca. Vị
sứ giả ấy xuất hiện, gảy nên những giai điệu làm say đắm lòng
người, khiến tất cả quên đi cái sự sống nhỏ bé của mình, để hòa
vào dòng chảy giữa lịch sử và thực tại, giữa thế hệ hôm qua và hôm
nay, giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác, đối thoại với trái
tim của những vị khách văn chương.

                            NGUYỄN NGUYÊN THU HÀ

                            #baiviethocsinh_blogchuyenvan

                      #liluanvanhoc_blogchuyenvan

 

Đăng nhận xét