Search Suggest

Dạy Ngữ văn theo chương trình mới | Chia sẻ kinh nghiệm dạy tiếng Việt

 

MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TIẾNG VIỆT

THEO CHƯƠNG TRÌNH MỚI

 Tác giả: Cô Phan Thị Bích Ngọc

GV Trường Quốc tế Việt Nam - Phần Lan



Trong bối cảnh dạy Ngữ văn theo chương trình mới, nhiều giáo viên trong đó có bản thân tôi đã gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn khi dạy phần tiếng Việt. Làm thế nào để dạy phần Tri thức tiếng ViệtThực hành tiếng Việt hiệu quả, tạo được hứng thú với học sinh? Cần làm gì để trợ giúp học sinh gặp khó khăn khi học kiến thức tiếng Việt? Bài viết này sẽ góp phần giải đáp những câu hỏi ấy.

 

1. Định hướng chung về việc dạy tiếng Việt theo chương trình mới

 

Trong chương trình mới, Tiếng Việt không phải là đơn vị kiến thức riêng lẻ mà là kiến thức nền bổ trợ giúp học sinh hình thành kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Vậy nên các bài tập thực hành tiếng Việt gắn với các văn bản văn bản đọc, nhằm giúp HS nhận ra các hiện tượng tiếng Việt trong văn bản và nhờ đó hiểu và tạo lập văn bản tốt hơn.

Nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện qua mục Tri thức tiếng ViệtThực hành Tiếng Việt. Yêu cầu cần đạt phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 6 (bộ Chân trời sáng tạo) đa phần ở mức “nhận biết”, tức là không quá đặt nặng về lí thuyết, mà chủ yếu hướng tới thực hành để nhận ra các hiện tượng tiếng Việt nhằm hỗ trợ cho các hoạt động đọc, viết, nói và nghe.

Từ đó, khi thiết kế kế hoạch bài dạy tiếng Việt theo chương trình mới, tôi thực hiện theo những định hướng sau:

Thứ nhất, bám sát yêu cầu cần đạt về tiếng Việt của từng chủ điểm, đặc biệt lưu ý yêu cầu về mức độ tư duy (chủ yếu là nhận biết) để tổ chức các hoạt động học tập phù hợp, vừa sức với học sinh.

Thứ hai, dạy phần Tri thức tiếng ViệtThực hành tiếng Việt trong mối tương quan với nhau. Ở phần Tri thức Tiếng Việt có thể sử dụng các phương pháp thuyết trình, phân tích mẫu, đàm thoại gợi mở, dạy học hợp tác… để giúp học sinh khám phá lí thuyết. Ở phần Thực hành tiếng Việt, học sinh làm bài tập thực hành để hiểu rõ hơn lí thuyết. Hai quá trình tìm hiểu lí thuyết và thực hành xuyên thấm vào nhau, bổ trợ cho nhau, các lỗi sai của học sinh khi làm bài tập thực hành tiếng Việt sẽ là cơ hội để học sinh nhìn lại lí thuyết, từ đó hiểu bài tốt hơn.

Thứ ba, khi dạy kiến thức tiếng Việt, chú ý đến việc tích hợp với đọc và viết (nếu thuận lợi). Chẳng hạn, sau khi học sinh làm bài tập thực hành tiếng Việt với ngữ liệu từ các văn bản đã đọc, giáo viên có thể lưu ý việc nhận ra hiện tượng tiếng Việt sẽ giúp cho việc đọc hiểu được thuận lợi hơn như thế nào. Cũng tương tự như vậy khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập Viết ngắn, có tích hợp yêu cầu về tiếng Việt.




2. Một số kinh nghiệm dạy phần Tri thức tiếng Việt

 


Khi tiếp cận phần Tri thức tiếng Việt, giáo viên cần lưu ý yêu cầu cần đạt để thiết kế các hoạt động học tập, hướng dẫn HS tiếp cận tri thức một cách nhẹ nhàng, tránh vượt khung, tạo cảm giác nặng nề, quá tải trong tiết học. Để dạy hiệu quả phần này, tôi căn cứ vào tính chất của đơn vị Tiếng Việt cần truyền tải để thiết kế các hoạt động tương tác. Thường thì tôi sẽ thiết kế các trò chơi để kích hoạt kiến thức nền, rồi từ đó hướng dẫn HS hệ thống lại kiến thức cũ song song với việc nhận diện những kiến thức mới.

 

Nếu tri thức tiếng Việt là một hiện tượng tiếng Việt học sinh đã được gặp trước đây, tôi thường tổ chức hoạt động khởi động để kích hoạt kiến thức nền, nhắc lại những điều học sinh đã biết để làm cơ sở hình thành kiến thức mới. Ví dụ như khi dạy bài Trạng ngữ: Ở Tiểu học, học sinh đã làm quen với trạng ngữ và các loại trạng ngữ. Vậy nên tôi sẽ kích hoạt kiến thức nền của học sinh bằng cách cho chơi trò chơi nhận diện rồi từ đó chốt lại tri thức về đặc điểm và chức năng của trạng ngữ bằng trò chơi “Những chú ong chăm chỉ”. Luậ chơi như sau:

 

GV sẽ lần lượt đưa ra các câu văn miêu tả những hình ảnh tương ứng. HS sẽ huy động những hiểu biết của mình về trạng ngữ, giúp chú ong tìm đúng trạng ngữ bổ sung thông tin cần biết cho các câu văn được dẫn. Và sau khi hs tìm được đáp án, GV sẽ chốt lại phần tri thức về trạng ngữ có trong câu, đặc biệt là nhấn mạnh đến chức năng liên kết câu, dựng đoạn của trạng ngữ.


 


 

Nếu tri thức Tiếng Việt là kiến thức hoàn toàn mới, tôi sẽ tổ chức các hoạt động khởi động giúp học sinh chuẩn bị tâm thế để làm quen với kiến thức mới. Chẳn hạn với đơn vị kiến thức “Mở rộng thành phần chính của câu bằng cụm từ”: Tôi đặt sẽ tình huống, cho học sinh lựa chọn đáp án và giải thích lựa chọn của mình. Trong hoạt động đó, tôi sẽ nhận xét quá trình học sinh thực hiện hoạt động học tập và đi đến hình thành tri thức tiếng Việt. Mở đầu bài học, tôi tạo tình huống “bạn Thỏ con cần chọn một câu miêu tả bức ảnh mà mình nhận được” rồi cho học sinh tìm đáp án đúng nhất, tiếp đó là các em sẽ giải thích lựa chọn của mình. Kết thúc hoạt động, tôi nhận xét và lí giải cho các em hiện tượng tiếng Việt xuất hiện trong trò chơi, rồi từ đó dẫn dắt các em tìm hiểu phần tri thức tiếng Việt.

 


 




 

3. Một số kinh nghiệm dạy phần Thực hành tiếng Việt và củng cố kiến thức tiếng Việt

 


Khi dạy phần Thực hành TV, kinh nghiệm của tôi là linh hoạt thiết kế các hoạt động sao cho phù hợp với tình hình lớp học. Bởi vì theo chương trình mới, số tiết không phân cố định cho từng phần kiến thức cụ thể mà trao quyền cho giáo viên. Tôi tâm niệm, GV sẽ là người hiểu năng lực học sinh của mình nhất nên thầy cô có thể co giãn tiết học, linh hoạt tổ chức giờ học sao học sinh có thể đạt được các mục tiêu cần đạt. Và cần lưu ý điều chỉnh các kì vọng ở HS sao cho phù hợp với yêu cầu của chương trình. Hoạt động mà tôi thiết kế cho phần này thường là: tạo nhóm cho HS làm bài tập, sau đó HS sẽ trình bày kết quả của nhóm mình trước lớp; thiết kế các bài thực hành tiếng Việt thành các trò chơi đố vui hoặc thành những trò thi đấu giữa các nhóm.

 

Để học sinh thực hành tri thức về cấu tạo từ, tôi tổ chức cho lớp chơi trò “Đi tìm từ vựng”với nhiều vòng chơi thú vị. Ví dụ như vòng 1 – khởi động, các đội chơi sẽ vận dụng tri thức về “từ ghép”, huy động vốn từ để có thể tìm nhiều từ ghép theo yêu cầu, hoàn thành phần chơi của nhóm mình.

 





Các phiếu học tập cũng là một công cụ hiệu quả để hỗ trợ học sinh thực hiện các bài tập thực hành tiếng Việt, bởi các mẫu phiếu học tập bao giờ cũng thể hiện phần gợi ý, dẫn dắt của GV để HS thuận lợi hơn trong việc làm bài tập.

 


 

Trong lớp học luôn có sự chênh lệch về năng lực giữa các học sinh, vậy nên tình trạng có học sinh làm bài tập sai hoặc gặp khó khăn khó khăn khi thực hiện bài tập là điều không tránh khỏi. Vì thế giáo viên cần có các giải pháp dự phòng để hỗ trợ các em. Giải pháp của tôi là quay video bài giảng, hỗ trợ quá trình ôn tập cho HS. Bên cạnh đó, tôi cũng tạo không gian tương tác sau giờ học cho các em đặt câu hỏi, thảo luận và giải đáp thắc mắc. Ví dụ như không gian trên Google classroom của lớp, việc học sinh đặt câu hỏi và để lại những bình luận giải đáp câu hỏi cho các bạn khác không chỉ giúp các bạn hiểu bài mà còn giúp các em kết nối, quan tâm tới nhau hơn.




 

Theo tôi, giáo viên không nên kì vọng chỉ cần dạy một lần học sinh sẽ nắm chắc bài, mà các đơn vị kiến thức tiếng Việt trọng tâm cần được nhắc đi nhắc lại để học sinh có thể khắc sâu kiến thức. Do vậy, cuối mỗi bài dạy thực hành tiếng Việt, tôi đều tổ chức hoạt động củng cố kiến thức. Một số cách thức hiệu quả bản thân đã thực hiện để củng cố tiếng Việt đó là tạo quiz (trắc nghiệm) trên các nền tảng trực tuyến, tăng tính tương tác của học sinh trong tiết ôn tập; nhắc lại hiện tượng TV đã học khi bắt gặp nó trong các văn bản đọc ở các bài tiếp theo (thực hiện ở giai đoạn trong khi đọc).



Tóm lại, từ kinh nghiệm giảng dạy Ngữ văn 6 theo chương trình mới trong thời gian vừa qua, tôi nhận ra rằng việc chuẩn bị một tâm thế cởi mở với cái mới, tìm hiểu đặc thù đơn vị kiến thức tiếng Việt trong chương trình mới, ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực và chuẩn bị các phương án hỗ trợ học sinh là vô cùng cần thiết. Trong bối cảnh năm học đầu tiên dạy Ngữ văn theo chương tình mới, việc chủ động tìm hiểu và thử nghiệm các phương pháp dạy học mới sẽ giúp giáo viên dần thích nghi, có được những tiết học hiệu quả.




Đăng nhận xét