Search Suggest

Giọt nước mắt - biểu tượng của nghề viết

 



Bài văn | Giọt nước mắt – biểu tượng
của nghề viết…



 



Đề bài:



 



Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư từng phát biểu: “Tôi
nghĩ nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang theo đuổi, tôi sẽ vẽ hình
ảnh của giọt nước mắt”.



 



Anh/chị nghĩ như thế nào về biểu tượng của nghề viết mà
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã nói ở trên?
Bằng
những trải nghiệm văn học, hãy làm rõ suy nghĩ của anh/chị về vấn đề nêu trên.



 



Bài làm



 



Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Võng
ngô đồng” từng viết: “Mỗi khi đặt bút lên tờ giấy trắng trong tinh khiết, tôi
cảm thấy sung sướng vô vàn, sung sướng đến chảy nước mắt ra”. Và ông luôn đau
đáu “tưởng như mình có thể chết nếu mất đi quyền viết”. Văn chương hay nghề
viết cao quý đến thế có lẽ cốt cũng bởi cái tình, cái khát vọng bộc lộ, giải
bày cảm xúc xuất phát từ tấm lòng nhà văn. Bởi thế nên, nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư-một nhà văn trẻ thời hiện đại từng có phút chiêm nghiệm về nghề viết rằng:
“Tôi nghĩ nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang theo đuổi, tôi sẽ vẽ
hình ảnh của giọt nước mắt”.



 



Viết văn, nói như nhà thơ Nekrasov: “Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị
kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi viết”. Văn chương khởi phát
từ tấm lòng, từ “giọt nước mắt” chảy trong lồng ngực tác giả. Giọt nước mắt
chính là hiện thân cho những giá trị cảm xúc, đó có thể là nước mắt đau đớn, là
nước mắt đồng cảm, là những vui buồn, những vỡ òa trước phận đời hẩm hiu, trước
những hiện thực ngang trái. Giọt nước mắt là sự phản chiếu, là sự minh chứng
cho năng lực xúc cảm của tâm hồn tinh tế nơi người cầm bút. Khi ví nghề viết
như biểu tượng của giọt nước mắt, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư muốn nhấn mạnh bản
chất giàu xúc cảm, giàu tình yêu thương của người viết trước nỗi thống khổ của
loài người.



 



          “Giọt nước mắt”... là những rung cảm
tinh tế của một tâm hồn nhạy bén trước những hỉ nộ ái ố trong cuộc đời, đó là
sự khúc xạ hiện thực thông qua lăng kính văn nhân. Văn chương được ví như loài
cây, đâm chồi từ mảnh đất màu mỡ mang tên cuộc sống. Để cây “văn” ấy lớn lên,
ra hoa, kết trái, buộc người thợ phải chăm bón từ thứ nước đặc biệt-chính là
nước mắt. Nước mắt từ đâu? Mảnh đất nuôi dưỡng con người đầy rẫy những khổ đau,
đầy những oan trái bất công, liệu rằng một nhà văn chân chính có thể nhắm mắt
làm ngơ trước những số phận khốn cùng?
 
Thiên chức nhà văn chính là lượm nhặt cảm xúc của mình nơi cuộc sống, để
rồi anh ta đau, anh ta thấu, dằn vặt khôn nguôi đến khi cảm xúc dâng trào, đó
là khi anh ta “khóc”- nước mắt không trào ra bên ngoài thì cũng chảy đầy trong
tim và rồi anh ta viết.  Như “Andecxen dã
lượm lặt những hạt trơ trên luống đất của những người dân cày, ấp ủ chúng nơi
trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những đóa hoa
thơ đẹp, chúng an ủi trái tim của những người cùng khổ” (Pautopxki)



 



Nhà
văn Heinrich Boll từng khẳng định rằng: “Tác giả tôi không sống trên ngọn hải
đăng tỏa ánh trong sạch phát hiện cái dơ bẩn quanh mình, để rồi lên tiếng mắng
chửi cái dơ bẩn ấy. Tác giả tôi sống trên đất đã làm nên anh ta, đau nỗi đau của đất đã làm nên
anh ta”. Chỉ khi người nghệ sĩ hòa mình vào hiện thực với những tình cảm chân
thành như thế, tác phẩm của anh mới thực sự chạm đến trái tim độc giả. Rung cảm
trước những kiếp người lầm than chính là phẩm chất quan trọng làm nên cái tài
của người nghệ sĩ. Mọi xúc cảm đối với người cầm bút viết nên trang đều khác lạ
so với người bình thường. Bất kể là yêu, ghét, buồn, vui, hận thù hay thương
cảm đều đến độ mãnh liệt. Bất kể viết về cái gì, nhà văn cũng thâm nhập vào đối
tượng với một con tim nóng hổi, với một tấm lòng rộng mở, biết ngạc nhiên dù là
một vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống. Cho nên khi một tấm lòng nhà văn đã thờ ơ,
nguội lạnh, tâm hồn khép kín trước cuộc sống thì khi ấy tài năng nghệ thuật cũng
biến mất.
Nghệ
thuật sinh ra để vì con người, nghệ thuật vị nhân sinh, vậy nên, tác phẩm nghệ
thuật nào cũng cần thể hiện sự đồng cảm với nỗi đau của con người.
Bởi nói
như Nam Cao: “Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân
dân”.
Chỉ
khi tình cảm trong tác phẩm đủ lớn, đủ sâu thì trái tim của cả nhà văn lẫn bạn
đọc mới “hòa chung một nhịp”, để người đọc có thể tin rằng, dù cuộc đời khốn
khó đến đâu, văn chương cũng không bỏ rơi con người. Thử hỏi nếu Victor Hugo
không đau nỗi đau của thời đại, của những kiếp người lầm than giữa chốn cạm
bẫy, dối lừa và khổ đau của xã hội nhiễu nhương Pháp nửa đầu thế kỉ XIX thì làm
sao ông có thể viết lên tuyệt tác bất hủ “Những người khốn khổ”? Thử hỏi nếu
đại thi hào Nguyễn Du, không đau đớn, không trào “nước mắt” trước phận đàn bà
trong xã hội phong kiến bất công thì làm sao lại có những trang Truyện Kiều
lừng lẫy? Tất cả là vì “văn chương ấy 
được viết nên từ huyết lệ” (Lâm Ngữ Đường)



 



Giữa xã hội nhố nhăng, giữa những nghịch lí mà bọn
cường hào ác bá tạo nên, Nam Cao đã đau đớn cho phận làm người của Chí Phèo.
Bằng bút lực của mình, Nam Cao đã thay lời muốn nói, đã gián tiếp tố cáo một
góc của xã hội đen tối- nơi mà những tên như Bá Kiến thỏa sức ức hiếp dân lành,
đẩy những con người lương thiện đi đến bước đường lưu manh, sống người không ra
người, thú không ra thú. Mọi nỗi đau của Nam Cao, dường như biểu lộ rõ nhất
thông qua giọt nước mắt của Chí Phèo khi bị Thị Nở cự tuyệt. Khi lòng tràn đầy
phẫn uất và tuyệt vọng, Chí đã uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng uống
thì men rượu lại gợi ra hình ảnh “bát cháo hành”- đó là nỗi ám ảnh, là nhát dao
khắc sâu thêm nỗi đau của hắn. Chính vì thế, Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”.
Đó là lần đầu tiên trong tác phẩm Chí Phèo khóc, và đó là biểu hiện rõ ràng
nhất của nhân tính, giọt nước mắt là “miếng kính biến hình vũ trụ” khẳng định
bản chất tốt đẹp của con người. Chí Phèo vật vã đau đớn, thấm thía nỗi đau
không cùng khi nhận thức bi kịch đời mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Thông qua ngòi bút hiện thực sắc lạnh, Nam Cao đi sâu vào cái bi, cái tệ nạn
trong đời sống con người thời đại nhưng ông không hề bôi nhọ con người mà trái
lại nhà văn đặt trọn niềm tin của mình vào con người, thể hiện một tấm lòng đau
người, đau đời tha thiết. Cũng từ đó, ta nghiệm ra rằng nhà văn đã đắm mình rất
sâu vào cuộc sống để “thấu thị” tâm tư xúc cảm của loài người, để mượn ngôn từ
cứu rỗi thế gian nhơ bẩn, để đau trước cái hiện thực tàn khốc và cuối cùng là
để bênh vực những kiếp người “đang cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hay số phận
đen đủi dồn đến chân tường” (Nguyễn Minh Châu)



 



Còn nhớ, Thạch Lam từng viết: “Một nhà văn thiên tài
là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ”. Nhà văn chân chính không
chỉ dừng lại ở lòng thấu cảm trước nỗi đau của con người mà hơn thế, họ còn đau
cho những những con vật được tạo hóa ban cho sự sống. Như nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp trong tác phẩm “Muối của rừng”, ông đã mượn nhân vật chính trong tác phẩm
là ông Diểu để gián tiếp nói lên lòng thương cảm, nỗi xót xa đối với muông thú
nơi hoang dã- những sinh linh nhỏ bé, đứng trên sợi dây sinh tử mỏng manh vì sự
tàn nhẫn của con người. Ông Diểu sau khi bắn được con khỉ đực, và đối diện với
ánh mắt của nó đã cay đắng hiểu ra rằng “hóa ra ở đời trách nhiệm đè lên từng
sinh vật quá nặng nề”, thể hiện một sự thức tỉnh của lương tâm con người. Nỗi
niềm đau đớn, xúc cảm của tác giả, được bộc lỗ hết thảy qua ánh mắt của cặp vợ
chồng khỉ, ánh mắt của chúng như đang cầu khẩn, van xin một con đường sống, ánh
mắt tố cáo những hành vi tàn phá thiên nhiên của con người.



 



 



Vượt ra khỏi nền văn học Việt Nam, ta cũng không khỏi
cảm kích trước trái tim nhân hậu của nhà thơ Nhật Bản Matsuo Basho khi ông bày
tỏ niềm thương xót đến những phận đời bơ vơ, giữa tiết trời mùa đông lãnh lẽo:



 



“Mưa đông giăng đầy trời



chú khỉ con thầm ước



có một chiếc áo tơi.”



 



Chỉ với 17 âm tiết ngắn gọn, cùng những khoảng lặng
đặc trưng của thơ Haiku, nhà thơ Basho đã vẽ lên một chân trời mơ ước, một khát
vọng êm ấm. Ông mượn mưa để nói về hiện thực khắc nghiệt của cuộc đời. Quý ngữ
“mưa đông” gợi ra khung nền khắc nghiệt, mưa là đói, là khổ, là lạnh, là rét.
Giữa phông nền mưa rơi đó, chú khỉ con là hiện thân cho con người, cho người
nông dân Nhật Bản, cho những em bé nghèo đang rét co ro, với “thầm ước” về một
“chiếc áo tơi”- áo tơi nghe thật bình dị, đáng thương làm sao! Hình ảnh “chiếc
áo tơi” tuy nhỏ bé nhưng đó lại là vấn đề thật lớn, là một khát vọng về cuộc
sống tốt đẹp hơn, ấm nó hơn. Và tôi tự hỏi nếu nhà thơ Basho không quan sát,
không động lòng, không đau đơn, không xúc cảm cho những phận đời cơ nhỡ thì làm
sao ông có thể khắc lên một bầu trời đầy những hoài bão cho họ?



 



Qua đó ta có thể thấy rằng, nhà văn chân chính, dù ở
đâu, dù họ là ai, dù cuộc sống họ như thế nào thì thiên chức cao quý nhất của
họ vẫn là thấu cảm với đời, đau nỗi đau của đời, và truyền tải những xúc cảm đó
đến với người đọc. Thật đúng khi nhà văn Elsa Triolet từng nói: “Nhà văn là
người cho máu”, là người chấp nhận cái đau để viết lên tuyệt tác có nhiều giá
trị cho đời. Hơn thế, “giọt nước mắt” của nhà văn không chỉ thể hiện sự đồng
cảm với con người thời đại, với những mảnh đời bất hạnh mà nó còn mang sức mạnh
cảm hóa con người, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mĩ. Tuy nhiên,
không phải chỉ có những điều đau thương mới khiến nhà văn thấu cảm, mà đó còn
là những niềm vui, niềm hân hoan trước cuộc đời muôn màu. Ngoài ra, về phía
người đọc, ta cũng cần soi rọi mình qua tác phẩm, để hoàn thiện bản thân hơn,
để nhận thức được những điều tốt-xấu, và biến cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn, có
ích hơn.



 



Nhà văn Hemingway từng nói rằng: “Tất cả các tác phẩm
nghệ thuật đều có sự bất tử của riêng nó. Bởi vì đó là sản phẩm bền vững của
lao động và trí tuệ con người. Rồi mai này các tranh tượng có thể tiêu tan, đền
đài có thể sụp đổ, chỉ có những tác phẩm nghệ thuật chân chính mới có khả năng
vượt ra định luật băng hoại của thời gian để tồn tại vĩnh viễn”. Để tác phẩm
nghệ thuật tồn tại vĩnh cữu tất cả chính là nhờ cái tâm tinh tế của nhà văn
trước mọi thăng trầm của thời đại. Quả không sai khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
phát
biểu: “Tôi nghĩ nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang theo đuổi, tôi
sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt”.



 



NGUYỄN
THỊ MINH NGUYỆT



Lớp
luyện thi HSG Trung tâm Duy Thanh



Giải
Nhất HSG Thành phố môn Ngữ văn (2021 – 2022)



 



#baiviethocsinh_blogchuyenvan



#liluanvanhoc_blogchuyenvan



#luyenthiHSG_blogchuyenvan



 


Đăng nhận xét