Search Suggest

Vấn đề biểu tượng trong tác phẩm "Linh sơn" của Cao Hành Kiện

 Cao Hanh Kien receiving his Nobel from his Majesty King Carl XVI of Sweden at the stockholm concert Hall 2000
NGUYỄN THỊ NGÀ
(Nghiên cứu sinh Văn học so sánh, Viện Văn học Đại học Sư phạm Hoa Đông, Thượng Hải, Trung Quốc)

             Văn học hiện đại được xem là văn học của các ẩn dụ, biểu tượng, huyền thoại. Những tác giả lừng danh của văn học thế giới thế kỉ XX đồng thời cũng là những bậc thầy về nghệ thuật ẩn dụ và biểu tượng. Dĩ nhiên, biểu tượng không phải là đặc sản duy nhất chỉ có ở văn học hiện đại, vì nó “cổ xưa như ý thức của nhân loại vậy”, và bởi vì như Guy Schoeller từng nói: “sẽ là quá ít nếu nói rằng chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng, một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta” (1).
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có những đặc sắc riêng về văn hóa và yếu tố tạo nên sắc diện văn hóa chính là các biểu tượng. Mỗi cộng đồng tùy theo điều kiện ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội mà có hệ thống biểu tượng riêng, quy định các mô thức ứng xử và giao tiếp của cá nhân và cộng đồng đó.
Một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng làm nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết Cao Hành Kiện cũng chính là dòng chảy sâu kín trong ngôn ngữ biểu tượng. Tác phẩm của ông chứa đầy những ẩn ngữ. Một cánh đồng lúa chín vàng, một khu rừng nguyên sinh, một làn điệu dân ca, một Nữ Oa, một Đại Vũ… tất cả những hình ảnh đó từ ý nghĩa hình tượng miêu tả cụ thể đã dần được nâng cấp lên thành biểu tượng. Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung khai thác biểu tượng trung tâm - “Linh Sơn”, với mục đích giải mã những thông điệp thẩm mĩ được gửi gắm trong đó, đồng thời cho thấy được vai trò của nhân tố chủ thể trong việc điều chỉnh, tái tạo, bổ sung những ý nghĩa mới cho nghĩa gốc của biểu tượng quan trọng này.
1. Biểu tượng văn hóa trong Linh Sơn
Linh Sơnxuất hiện liền trở thành “hiện tượng” trên văn đàn. Cuốn sách được đánh giá là “tác phẩm mang tính phổ quát toàn cầu, ghi lại những đắng cay của con người trong thế giới hiện đại”.
Sau buổi trao giải thưởng Nobel văn học, tờ báo Le Monde của nước Pháp đã giới thiệu tác phẩm “Ngọn núi của tâm hồn” bằng đoạn văn mô tả: “Một người, với túi xách trên vai, đã ngược xuôi trên các cánh đồng lúa chín vàng hay những khu rừng tre xanh biếc, khi thì đi chân đất, khi thì ngồi xe đạp, để đi tìm một ngọn núi bí mật, một nơi lý tưởng để con người có thể rũ sạch bụi trần” (2). Và người đó là ai? Đó là Cao Hành Kiện - con người đang hành hương về miền “Núi thiêng của Tâm hồn”.
Cao Hành Kiện sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại huyện Cán Châu tỉnh Giang Tây thuộc miền Đông của nước Trung Hoa. Bố làm việc ở ngân hàng, mẹ là nghệ sĩ, ông lớn lên trong hoàn cảnh quân Nhật chiếm Trung Hoa trong suốt tám năm trường (từ 1937 tới 1945) và trưởng thành trong chế độ “cộng hòa nhân dân”, nơi mà xã hội và văn hóa đặt trọng tâm vào đời sống tập thể, cá nhân không còn chỗ đứng và có khi bị tan loãng trong cơn lũ ồ ạt của tâm lý quần chúng, tình cảm tập thể và suy tưởng một chiều. Và nhất là trong “Cuộc cách mạng văn hóa” (1966-1976) sứ mệnh văn chương, sứ mệnh dân tộc, sáng tạo văn nghệ là để phục vụ chính trị, nhà văn không có quyền tự do sáng tác, không có quyền bộc lộ cái tôi của mình. Chính sách “đổi mới” do Đặng Tiểu Bình chủ xướng đã tạo ra môi trường phì nhiêu cho sự phát triển của văn học. Có thể nói, ông là một trong những người tiên phong của Trung Hoa thời hậu Mao đã cổ vũ đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực.
Trong thập niên 80, trong xu thế toàn cầu hóa, sự gia tăng phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, cùng với tham vọng đuổi kịp các nước phương Tây về tiến bộ kinh tế và khoa học kĩ thuật của Trung quốc, giới trí thức, kể cả các nhà văn đã tiếp cận nhiều lý thuyết và tư tưởng từ các nước phương Tây như: Phân tâm học Phrớt, chủ nghĩa tân cảm giác, thủ pháp “dòng ý thức”, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh,... Tuy nhiên, một số nhà văn tỏ vẻ hoài nghi về việc “nhập cảng nguyên xi” các lý thuyết phương Tây, vì họ cho rằng các thuyết này làm giảm năng lực sáng tác của người Trung Quốc. Họ đã chủ trương tìm ra một hướng đi mới, một cách lí giải mới trong sáng tác trên cơ sở của sự kết hợp hai nền văn học Đông – Tây. Một trong những nhà văn nằm trong nhóm này được chú ý đến là Cao Hành Kiện.
Sống trong thời đại và xã hội như vậy, bản thân Cao lúc này ngoài áp lực từ phía chính quyền ông còn phải đương đầu với những vấn đề sức khỏe cá nhân, nên ông luôn mang trong mình ý thức chạy trốn, chạy trốn tập thể, chạy trốn cộng đồng. Đây là nguyên nhân khiến Cao làm một cuộc hành trình trở về với cội nguồn. Đó cũng là giải pháp của ông cho cá nhân trước sự hiện hữu cá nhân bị xã hội hóa, ngay cả trong một cộng đồng nhỏ nhất như chỉ có hai người.
Như vậy, không chỉ là nhà văn mang trong mình dòng máu dân tộc - “Văn hóa Trung Quốc đã chan hòa trong dòng máu của tôi…” (3), Cao còn là nhà văn chịu ảnh hưởng sâu sắc của giáo lý Thiền tông, của thủ pháp kể chuyện “dòng ý thức”, của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh,… nên người đọc dễ nhận thấy trong tác phẩm của ông không chỉ là những ẩn dụ lớn về triết nhân sinh thông qua một hệ thống các biểu tượng văn hóa phong phú, mà còn chất chồng những ám thị, đốn ngộ bằng lối cách điệu, biểu trưng mạnh mẽ. Chính Cao cũng đã thừa nhận: “Tượng trưng là một cách làm khôn ngoan để đưa hòa trộn triết học và thi ca vào tiểu thuyết… Nó là sự phát triển thêm một bước nữa của thủ pháp tượng trưng” (4).
Linh Sơn(1982-1988) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Cao Hành Kiện, kể lại chuyến hành hương của một người đàn ông, được viết dựa trên những ấn tượng từ chuyến đi thực tế của chính tác giả kéo dài mười tháng, xuyên qua mười lăm nghìn cây số, đi sâu vào thung lũng Tứ Xuyên, trung tâm lục địa Trung Quốc. Với ý nguyện viết một cuốn sách cho chính bản thân mình, để bày tỏ cái tôi của bản thân một cách tự do và đặc biệt Cao Hành Kiện cũng không nghĩ một cuốn sách như thế sẽ được xuất bản trong buổi ông còn sống, nhưng ý nghĩa của tác phẩm đã vượt qua dự định của nhà văn. Cuốn tiểu thuyết dài hơn năm trăm trang sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và đã giành được giải Nobel văn chương năm 2000, làm thay đổi số phận và cuộc đời của tác giả lưu vong này. Cũng từ đó Linh Sơn đã thực sự tồn tại trong đời sống văn học và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều bạn đọc và học giả trên thế giới. Thông cáo của Viện Hàn lâm Thụy Điển ngày 12/10/2000 đã nhận định: “Giải văn chương Nobel năm 2000 tặng nhà văn Hoa ngữ Cao Hành Kiện cho một trước tác có tầm cỡ thế giới, mang dấu ấn đắng cay trong nhận thức và nét tinh tế của ngôn từ, mở ra nhiều nẻo đường mới cho nghệ thuật tiểu thuyết và sân khấu Trung Quốc” (5).
Linh Sơnđược kiến trúc trên cảm nghĩ từ những cuộc du hành vào các miền đất sơn cùng thủy tận phía Nam và Tây Nam Trung Quốc, nơi phong tục Saman vẫn còn tồn tại dai dẳng cùng với chuyện sơn thủy giang hồ, lục lâm thảo khấu, được truyền tụng như sự thật, với những đạo sĩ còn sinh hoạt theo nếp sống hiền triết của tiền nhân. Linh Sơn là xâu chuỗi nhiều chuyện kể với nhiều nhân vật chính, phản chiếu với nhau như những tấm kính, gợi ra nhiều diện mạo của cùng một cái tôi thống nhất. Chứa đựng trong tác phẩm là trí tưởng tượng phong phú với tầm văn hóa lớn lao, một cái nhìn toàn cầu về con người, về văn hóa, thông qua việc sáng tạo những biểu tượng có ý nghĩa nhân loại. Qua hệ thống biểu tượng, bạn đọc có thể hiểu được bản chất, ý nghĩa của tự nhiên, hiện thực và truyền thống cũng như cơ sở gắn kết của cả một cộng đồng.
Cuốn tiểu thuyết Linh Sơn ẩn chứa nhiều biểu tượng, chúng thường là sự đan cài của một số biểu tượng như biểu tượng về thời gian (buổi chiều, đêm tối, ánh lửa, thời gian hiện tại, thời gian quá khứ…), biểu tượng về không gian (cánh đồng, căn phòng nhỏ, ngôi làng cũ, trị trấn nhỏ, đồi núi, khu rừng nguyên sinh,…), biểu tượng về huyền thoại - truyền thuyết (ngôi mộ Trị Thủy, một Nữ Oa, một Phục Hy, một căn nhà Lỗ Tấn, vì sao Bạch Hổ…), biểu tượng về sự kiện (cuộc Cách mạng văn hóa, một vụ tự tử, một cuộc thanh trừng, một vụ cướp…), biểu tượng về giấc mơ (hình ảnh mẹ, bà, bố, con thỏ lông trắng, con cún con), biểu tượng về nhân vật… đến những biểu tượng liên quan đến lĩnh vực tinh thần như tôn giáo, tín ngưỡng, những biểu tượng liên quan đến xã hội trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, có những biểu tượng đơn nhưng cũng có những biểu tượng kép… Chúng có thể có quan hệ đẳng cấu, bổ sung hoặc tương phản với nhau làm nổi bật lên biểu tượng trung tâm của tác phẩm.
“Linh Sơn” là biểu tượng tiêu biểu và độc đáo của Cao Hành Kiện. Địa danh này xuất hiện trong tác phẩm hai mươi ba lần dọc theo suốt chiều dài tác phẩm. Biểu tượng này có đầy đủ những đặc tính có thể thay mặt cho số đông, mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, đã thể hiện được những chức năng cơ bản là khám phá, thay thế, siêu nghiệm và liên kết xã hội. Vì vậy, khảo sát, tìm hiểu, phân tích và đánh giá nó là con đường để khái quát nên giá trị toàn bộ hệ thống biểu tượng trong tác phẩm.
Trong sách nhà Phật, Linh Sơn là tên gọi của ngọn núi danh tiếng, gần thành Vương Xá (Rajagriha), nơi phật Thích Ca giảng bộ kinh Đại Thừa quan trọng, bộ Diệu Pháp Tiên Hoa. Linh Sơn được ví với cõi Phật.
Trong văn chương Đông Á, Linh Sơn thường hiện lên với vô vàn vẻ đẹp linh thiêng. Đó là chủ đề của thơ và cũng là chủ đề của Đạo: “Linh Sơn thầm trao pháp, Thiếu Thất chỉ truyền tâm” (Thiền Uyển Dao Lâm).
Linh Sơn cũng có thể là “Không sơn”: “Không sơn tịch lịch đạo tâm sinh” (Trương Duyệt). Trong thơ ca Việt Nam, Nguyễn Du cũng đã dựng lên một Linh Sơn tuyệt vời:
“Tâm sáng rồi, người tự độ,
Linh Sơn trong lòng ai.
Cũng không có đài gương sáng,
Vốn chẳng có cây Bồ Đề.
Ta đọc Kim Cương hơn nghìn lượt,
Không sao hiểu hết nghĩa huyền.
Đến đài phân kinh mới biết:
Không chữ, đấy là chân kinh.”
(Đài đá chia kinh của Thái tử Chiêu Minh nhà Lương - Bắc hành tạp lục)
Đó là một thiền ca bay bổng của Tố Như, một lộ trình tâm linh chói sáng. Ngoài tâm, không có Linh Sơn, không có đài gương sáng, không có cây Bồ Đề…
Linh Sơn là một hiện tượng văn chương tiêu biểu. Thế nhưng “Linh Sơn” của Cao chắc chắn không phải là linh sơn trong sách bói Sơn hải kinh, cũng chẳng hề có ở địa lý chí “Thủy kinh chú”. Nhân vật trong Linh Sơn đi tìm Linh Sơn - một ngọn núi thiêng trong huyền thoại. Đó là hành trình tìm về Tự Ngã của bản thân anh ta hay chính là hành trình tìm về cội nguồn văn hóa, về những khoảng thời gian đã mất, những vẻ đẹp của quá khứ, những số mệnh đau khổ của những con người bị đè nghiến, bị vùi dập, bị lãng quên trước sự thay đổi của thời cuộc? Con người trong Linh Sơn thật cô đơn, dù họ bấu víu, yêu thương hay hành hạ nhau thì họ vẫn cô đơn - nhưng phải chăng chỉ khi họ tự ý thức được sự cô đơn đó thì họ mới tìm được chính mình? Vậy thì cái gì có thể cứu rỗi con người? Liệu đó có phải là “Linh Sơn” không?
“Linh Sơn” là biểu tượng kép có ý nghĩa làm nền cho các biểu tượng khác trong tác phẩm. Nó như cuộc hành trình của nhân vật, là khởi điểm hay là đích đến của những biểu tượng khác. Linh Sơn mà cuộc hành trình hướng đến là “miền đất hứa”, là đích đến để chạy trốn cuộc sống phàm tục và tìm lại bản ngã. Lấy “Linh Sơn” làm tiêu đề tiểu thuyết, Cao đã đánh động được cả một miền tâm thức để gợi ra bao biểu tượng khác.
Là yếu tố nghệ thuật của tác phẩm, “Linh Sơn” hiện lên trong tác phẩm lung linh huyền ảo, hư hư thực thực như chính tâm trạng của tác giả hay cũng như bao số phận, bao con người, bao cuộc đời trong truyện.
“Mi bắt chuyện, hỏi hắn: Đi đâu? Hắn đáp: Đi Linh Sơn. Lại hỏi: Là đâu? Hắn trả lời: Linh Sơn, Núi Linh ấy mà…
…Mi lại hỏi Linh sơn ở đâu?
Hắn đáp: Ở thượng nguồn sông Du
- Làm sao đi đến đó?
- Thì đi xe đò đến thôn Vu Di, rồi từ Vu Di tìm ngược sông Du…” (6).
Đó là địa chỉ Linh Sơn mà người đọc có thể ghi nhận qua vài trang đầu của tiểu thuyết.
Vậy Linh Sơn là đích của cuộc đi, hay đi đến Nát bàn hay đi về cõi chết? Linh sơn còn là khởi điểm của tìm kiếm, tìm kiếm bản thân hay tìm kiếm sự thật? Hay Linh Sơn cũng chỉ là một lâu đài Kafka trong một Trung Hoa mở ra trên đống tro tàn của cuộc Cách mạng văn hóa? Linh Sơn là câu chuyện của một người đi tìm sự yên tĩnh và tự do cho cá nhân, và cũng là một phản ứng văn chương trước phong trào hủy hoại cá nhân trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa.
Mang trong mình ý niệm chạy trốn thực tại, Cao đã làm cuộc hành trình dọc theo bờ sông Dương Tử hướng về thiên nhiên nguyên sơ, hướng tới nền văn hóa dân gian, với cơ man những huyền thoại, truyền thuyết, truyện hoang đường, sinh hoạt thần bí, cạnh các con người tận cùng sơn thủy như mới bước ra từ thời ăn lông ở lỗ, bàng bạc màu sắc dân ca, dân vũ.
Cuộc hành trình từ đây chia ba: Thứ nhất là cuộc đi trên đường trường, “đi thực tế”, trong hiện tại do “ta” kể lại. Thứ hai là đi trong nội tâm, đây là cuộc hành trình tư tưởng, hành trình ảo dục tình, hành trình dĩ vãng, hành trình lịch sử, hành trình trong những kiếp người do “mi” kể lại. Và thứ ba là hành trình của kẻ tha nhân, kẻ khác phái, do “nàng” kể lại. Chính vì lẽ đó, đi tìm Linh Sơn vừa là một cuộc vạn lý trường chinh thật và ảo về các nơi chốn khác nhau, trong quá khứ, trên các mảnh đất kỳ lạ đã trải qua bao nhiêu tang thương biến đổi của phận người, vừa là một cuộc đi nội tâm tìm bản thể, phanh phui, giải phẫu cái tôi. Chuyến đi là cuộc đối thoại nội tâm trường thiên giữa ba nhân vật: tôi hay ta, mi hay mình, và nàng hay cô ấy, bà ấy, mụ ấy… nhằm tìm về bản ngã của mình.
Trên hành trình của sự trải nghiệm thực tế, Cao đã phiêu du qua khắp các vùng miền, mỗi địa danh, mỗi chốn trọ, mỗi tích tắc dừng chân hay mỗi nấc thời gian chảy dài trên đường trường đều là một cơ duyên dẫn đến sự thực, đến những mẩu đời, những trắc ẩn riêng tư của một thời, một đời còn đọng lại trên mảnh đất Trung Hoa. Khách du cũng đã đưa độc giả trở về với quá khứ vàng son, với lịch sử oanh liệt của nền văn hóa lâu đời nhất hoàn cầu: Một vì sao Bạch Hổ, một dải Ngân Hà, một Tây Vương Mẫu, một Bạch Đế Thành, một Khổng Minh Gia Cát, một thân phụ Vu Sơn, một địa chỉ Càn Long, một Thái Bình Thiên Quốc, một căn nhà Lỗ Tấn, một ngôi mộ Đại Vũ Trị Thủy, một Khuất Nguyên ôm nỗi oan khuất xuống dòng Mịch La, một ni cô mỗi tối mổ bụng rửa lòng đời Tấn, một đập Tam Hiệp lấp lên mấy ngàn năm lịch sử… Tìm về với quá khứ lịch sử cũng chính là trở về với cội nguồn, với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đối với lịch sử, Cao cho rằng mỗi người có cách nhìn nhận lịch sử riêng của mình. Tuy nhiên, đối với Cao, ông khẳng định: “Từ quan điểm của tôi, tôi muốn loại trừ những dối trá ngụy tạo, đã có vô số lời dối trá được tung truyền trong một trăm năm qua, trong đó bao gồm cả những lời dối láo về ý thức hệ… Tôi nghĩ rằng lịch sử là cái gì đa dạng và có những quan điểm khác nhau. Nếu mỗi quan điểm đưa ra một khía cạnh trung thực của lịch sử, chúng sẽ bổ sung và phản ánh một bức tranh lịch sử hoàn tất hơn” (7).
Vượt lên trên cuộc hành trình trải nghiệm thực tế đó là “cuộc hành trình trải nghiệm về tư tưởng nhận thức” của Cao. Bởi, cũng giống như bao con người đi theo Thiền tông khác, để cuộc hành trình, hành hương trở về “miền đất hứa” đạt được “đích” của nó thì phải thực hiện cuộc hành hương, đó là sự trải nghiệm. Nhưng trên hết sự trải nghiệm này phải đạt đến được sự nhận thức, không chỉ nhận thức về mặt thực tế vật chất mà còn nhận thức về mặt tinh thần. Và nhận thức cao nhất ở đây cần đạt đến là là cái “Đạo”, là sự bừng tỉnh, giác ngộ và cao hơn hết là sự “đốn ngộ”.
Trong Tây Du Kí (Ngô Thừa Ân) thầy trò Đường Tăng đã thực hiện một cuộc hành hương trải qua bao gian lao thử thách, qua chín lần chín tám mươi mốt nạn, cuối cùng đã chinh phục được tự nhiên, tiến lên chân lí, đạt được mục đích trở thành Phật. Vậy Cao Hành Kiện của chúng ta thì sao?
Băng qua mười lăm nghìn cây số đường trường với gần mười tháng ròng. Khi thì đi bộ, khi thì ngồi xe khách, rồi vượt đèo lội suối,… Như một kẻ viễn du, Cao không chỉ đã nhận thức được những gì ở thiên nhiên, ở đời sống hàng ngày của con người, với những cái nhỏ nhặt rất đỗi đời thường, mà Cao còn nhận thức, ý thức được những nỗi niềm tiềm ẩn trong đó. Cao như “đau với nỗi đau của nhân loại” để rồi trên con đường trở về với cội nguồn đó ông lí giải cuộc sống hiện tại, lí giải vấn đề xã hội, đánh giá lại những sự kiện, con người, lịch sử, số phận… Cao đã đi qua chiêm nghiệm những cánh đồng lúa bát ngát chín vàng, những rừng phong bạt ngàn nguyên thủy đến những cơn mưa, màn sương, bóng tối và cả rêu phong ướt át hai bên trung lưu dòng Trường Giang hùng vĩ. Cao cũng đã gặp những thầy mo, những bà đồng, những vấn đề bảo vệ môi trường, hay những điệu hò điệu vũ, những lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc Mèo, những cổ lệ của dân tộc Khương, Di… Đôi lúc Cao cũng thấy cay đắng trước sự suy tàn của của truyền thống như: làn điệu dân ca bị cấm đoán và lãng quên, khu rừng nguyên sinh bị phá hủy, những con vật bị bắn và giết… Cao cũng như bày tỏ lòng mình trước số phận của những cô gái bị cán bộ hãm hiếp, cô gái điếm bị dày xéo, một em bé bị bỏ quên bên đường, một cảnh dã man trong Cách mạng văn hóa, một cuộc tàn sát trong cải cách ruộng đất… Tất cả đã được Cao nhào nặn nên một thực tại sống ngày nay trong quá khứ và trong tưởng tượng. Mỗi cuộc đi lại gắn với một cuộc đời, một câu chuyện. Cố tìm lại bản thân mình bằng cách tìm đến với thiên nhiên hoang sơ, trở về với văn hóa cội nguồn, với sự thực ở đời… Điều đó thật có ý nghĩa với một con người đã mất đi niềm tin vào cuộc sống thực tại trong thời đại đã xã hội hóa con người.
Cao hơn nữa, sự trải nghiệm đã đạt đến nhận thức về sự hài hòa giữa tự nhiên, con người và xã hội. Dường như trở về với những cái nguyên sơ của thiên nhiên, con người, lịch sử… con người mới trở nên đẹp đẽ, trong sáng, thanh khiết hơn, từ đó mới tìm ra được bản chất thật của cuộc sống, của tâm linh mỗi con người.
Cuộc hành trình với sự trải nghiệm của nó cũng đã nâng cao tình cảm thẫm mĩ trong quá trình nhận thức của con người. Cái đẹp tự nhiên và xã hội đạt được sự thăng hoa của nó là gì? Đó chính là sự tự do tự tại trong tâm hồn.
Hành trình của khách du về với Linh Sơn, về với cội nguồn dân tộc không còn là chuyến đi có thực trong câu chuyện mà đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật hối thúc con người tìm về với cội nguồn - nơi sinh thành và nuôi dưỡng tâm hồn họ. Bởi có lẽ chỉ có ở đó con người mới cảm thấy “yên tĩnh và thanh bình như vang lên một bài thánh ca” vậy. Điều này cũng dễ hiểu bởi nghệ thuật phương Đông thường thể hiện con người trong sự hòa quyện với thiên nhiên.
Trong tác phẩm Hữu thể và thời gian, Martin Heidegger đã xem cuộc đời con người chỉ như một phác họa, muốn hoàn thiện mình chúng ta phải vượt qua hoàn cảnh thực tại để kiếm tìm bản ngã của mình. Dưới ảnh hưởng của tư tuởng triết học này, văn học nghệ thuật hay miêu tả các cuộc hành trình như là sự trải nghiệm của nhân vật. Điều quan trọng là quá trình trải nghiệm chứ không phải là đích đến. Vì vậy khái niệm “trên đường” luôn được nhấn mạnh.
Một trường hợp tương tự với “Linh Sơn” của Cao Hành Kiện, “Xứ Tuyết” của nhà văn Nhật Bản Kawabata cũng đã trở thành biểu tượng thiên nhiên tươi đẹp, miền thẳm sâu thanh sạch, nguyên sơ của tâm hồn. Chính vẻ đẹp chất phác ấy đã cứu rỗi con người, giúp con người tìm được sự bình yên giữa cuộc sống xô bồ, sặc mùi vụ lợi đầy cám dỗ của đời sống vật dục. Cũng như ở “Xứ Tuyết”, cuộc hành trình về Linh Sơn cũng đã trở thành biểu tượng cho cuộc kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời của con người. Trên một ý nghĩa như vậy, ta cũng có thể xem khách du là một phác họa đang trong hành trình tìm kiếm bản thân mình. Qua hành trình trải nghiệm ấy anh ta nhận ra bản chất của cuộc sống là nằm ở tâm linh mỗi con người. Trên hết anh ta tìm được ý nghĩa của cuộc sống. Sống là được chia sẻ, đồng cảm với mọi người, là được hiểu biết cội nguồn dân tộc và quan trọng hơn là “một bình yên tự tại gần như bất động trước mọi biến chuyển của cuộc đời”. Đó là tâm hồn của tiểu thuyết Linh Sơn. Rõ ràng, Cao đã tiếp tục con đường mà các bậc tiền nhân đã đi để viết tiếp những trang văn giàu chất thơ, thấm đẫm triết lí nhân sinh về cuộc đời.
Cao đã kết thúc cuộc hành trình bằng một bài hát cổ cách đây mấy nghìn năm:
“Hữu dã hồi
Vô dã hồi
Mạc tại giang biên lãnh phong xuy”(8).
Đường đến Linh Sơn, như vậy không phải ở bên bờ trái cũng không phải bên bờ phải, mà chính là đường “trở về”. “Hữu” cũng về mà “Vô” cũng về. “Có” hay “Không” chẳng phải là khác biệt. Khi tâm sáng rồi thì Linh sơn tự hiện.
Linh Sơn thầm lặng, ẩn mình trong tâm người.
2. Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong Linh Sơn
Biểu tượng là một dạng kí hiệu ẩn chứa vô vàn ý nghĩa khác nhau. Đi sâu, tìm hiểu, giải mã ý nghĩa của biểu tượng giúp ta mở rộng tầm nhận thức và khám phá ra những giá trị đích thực của tác phẩm, đồng thời cũng hiểu sâu thêm văn hoá dân tộc. Biểu tượng “Linh Sơn” mà Cao xây dựng trong tiểu thuyết là bài toán ẩn chứa nhiều đáp số, chính điều này đã tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm.
Trong loại hình nghệ thuật ngôn từ (văn chương), biểu tượng bắt buộc phải xa rời đời sống nguyên khởi của nó để khoác lấy cái vỏ âm thanh ngôn ngữ. Vì vậy, con đường giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học sẽ phải đi từ chính ngôn từ, kết cấu, các thủ pháp,… để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau những hình tượng có nguồn gốc từ biểu tượng. Bởi biểu tượng chính là những hình tượng mang ý nghĩa. Hình tượng mang tính đơn nghĩa, biểu tượng mang tính tiêu biểu, khái quát và đa nghĩa.
1. Ảo hóa
Ảo hóa là một trong những thủ pháp nghệ thuật có mặt trong lĩnh vực sáng tác văn học của nhân loại từ rất lâu. Ảo hóa chính là cái bất bình thường, cái khác lạ không có thật nhằm gây sức hút và tạo ấn tượng cho người đọc.
Chúng ta biết rằng biểu tượng sống tiềm ẩn từ cõi vô thức mà sáng tạo ra biểu tượng lại từ thế giới hữu thức. Do đó quá trình xây dựng biểu tượng chính là quá trình khách thể hóa những năng lực bản chất con người kết hợp yếu tố chủ quan về tài năng nghệ thuật của nhà văn để tạo ra một thế giới biểu tượng mang đầy sức sống văn hóa. Tiếp nối truyền thống văn học cổ xưa, trong hầu hết các sáng tác của mình, Cao đều có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố thực và ảo tạo nên một thế giới biểu tượng với muôn vàn màu sắc, thực ảo xen kẽ, biến đổi khôn lường. Mỗi bước đi của khách du, mỗi điểm dừng, mỗi lời nói của nhân vật đều ẩn chứa không gian văn hóa quá khứ, kí ức thực và ảo của tuổi thơ, những truyền thuyết, những sự kiện lịch sự, những truyền thống văn hóa lâu đời đều đồng thời thể hiện thế giới đương đại. Tất cả đều nhuốm màu huyền thoại nhưng lại rất hiện thực. Sự chuyển đổi và đan xen giữa hiện tại và quá khứ hồi ức, với những triết lý nhân sinh đã làm cho tiểu thuyết tràn đầy tình tiết thần kì, thấm đẫm màu sắc thần thoại nguyên thủy trong ý thức tự ngã của con người hiện đại.
Không gian tự sự cũng mang tính chất song trùng vừa thực tả vừa hư tả, nó cũng có những tên gọi thực về địa lí, về lịch sử hình thành và phát triển nhưng nó cũng là hư cấu của tác giả. Cái ảo tồn tại trên nền cái thực, trong ảo có thực làm cho người đọc lạc lối và chính điều này tạo nên sức hấp dẫn diệu kì của tác phẩm.
Một trong những yếu tố tạo nên sức hút của thể loại tiểu thuyết đó là những sự kiện. Sự kiện có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời nhân vật cũng như quá trình vận động của tác phẩm văn học. Linh Sơn có một hệ thống sự kiện, tình tiết đầy ảo hóa đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt. Xuyên suốt tác phẩm chỉ có một người kể chuyện nhưng điểm nhìn lại liên tục được thay đổi, có lúc tác giả để nhân vật ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” hay “ta”, cũng có lúc dùng ngôi thứ hai “anh”, “bạn”, cũng có lúc ở ngôi thứ ba “cậu”, “nó”,… đan xen kết hợp làm cho câu chuyện diễn ra nhịp nhàng uyển chuyển. Ngoài ra trong truyện còn có nhân vật “nàng” biến thiên không ngừng: nay là một thiếu nữ, mai là một thiếu phụ, mốt là một hồn ma… tất cả kể chuyện mình, chuyện những bất hạnh riêng tư của người phụ nữ. Đặc biệt hơn là toàn bộ câu chuyện đều được tác giả miêu tả tỉ mỉ bằng tất cả sức mạnh giác quan của nhân vật chính, khiến cho những sự kiện trong tác phẩm vừa hiện lên khách quan vừa chủ quan, vừa hiện thực vừa kì ảo. Nhân vật sống trong cõi thực mà như đang ở cõi mơ. Những câu chuyện đời thường đan xen những câu chuyện huyền thoại, lịch sử, câu chuyện của một người, một vùng, một thời dần dần được mở rộng thành câu chuyện mang tính phổ quát toàn thế giới hiện đại.
Những sự kiện bị ảo hóa đã tạo ra một không gian hư ảo, huyền bí đánh thức sự hiếu kì của độc giả. Thực hư đan cài nhau, tạo thành một thể thống nhất. Ranh giới giữa thời gian và không gian, quá khứ và hiện tại, vật lý và tâm lý trở nên mơ hồ.
2. Phóng đại
Là sản phẩm của một nhà văn vừa hiện đại vừa truyền thống, rất nhiều biểu tượng trong Linh Sơn đã được trí tưởng tượng của nhà văn hun đúc tạo thành những hình ảnh kì vĩ. Tiêu biểu là biểu tượng “Linh Sơn”, đó không còn là một ngọn núi đơn thuần nữa mà đã được phóng đại trở thành biểu tượng con người tìm lại bản ngã của mình. Chiều kích của biểu tượng lớn dần lên tùy vào ý nghĩa và vai trò của chúng trong tác phẩm.
Nghệ thuật phóng đại một mặt nhấn mạnh tầm quan trọng của biểu tượng mặt khác cũng chứa đựng tư tưởng của tác phẩm, đó là khát vọng gìn giữ vẻ đẹp của biểu tượng trong đời sống con người.
3. Tương giao cảm giác
Chịu ảnh hưởng nhiều từ trường phái cảm giác mới của phương Tây hiện đại, bằng bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp tượng trưng, biến hình, huyền ảo, khoa trương… Cao đã khiến cho một vật nhỏ bé, một ánh mắt, một cảm xúc… cũng trở nên có hình ảnh, hương sắc, mùi vị. Linh Sơn luôn có sự tương giao nhiều chiều trong cảm giác. Tác giả đã cấp cho “Linh Sơn” một linh hồn riêng, một sức sống riêng, vừa phụ thuộc vào bản thể con người vừa tách khỏi nó. Mọi vật thể đều được soi chiếu trong sự dịch chuyển điểm nhìn theo cảm giác của nhân vật tạo nên nét đặc sắc riêng cho tác phẩm.
4. Kết cấu mạch vòng
Kết cấu mạch vòng mở ra một không gian vô tận cho sức sáng tạo và liên tưởng. Nhà văn để ngỏ về số phận cuộc đời nhân vật . Những hồi ức mà nhân vật đã trải qua càng làm tăng thêm số lần xuất hiện biểu tượng. Hồi ức làm cho các sự kiện trong tác phẩm xuất hiện không theo trật tự tuyến tính, luôn có sự đảo lộn trật tự. Tám mươi mốt chương như tám mươi mốt câu chuyện nhỏ tưởng chừng như rời rạc nhưng lại dễ dàng bắt nhập với cốt chuyện, độc giả vẫn dõi theo được mạch kể câu chuyện và như đồng hành cùng nhân vật trên đường tìm lại bản ngã cuộc đời.
Kết luận
Là một nhà văn có sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Đông Tây. Tác phẩm của Cao đã thể hiện một cái tôi đặc sắc, cái tôi đã xuất hiện mang một không gian tự sự cũng mang tính chất song trùng vừa thực tả vừa hư tả, nó cũng có những tên gọi thực về địa lí, về lịch sử hình thành và phát triển nhưng nó cũng là hư cấu của tác giả. Cái ảo tồn tại trên nền cái thực, trong ảo có thực làm cho người đọc lạc lối và chính điều này tạo nên sức hấp dẫn diệu kì của tác phẩm giá trị văn hóa đậm tính nhân văn. Tiếng nói riêng biệt đó được thể hiện qua nghệ thuật sáng tạo và xây dựng biểu tượng văn hoá. Nó là cộng hưởng dư âm của tất cả những gì thuộc về nhân loại, thuộc về thời đại và dân tộc. Bản sắc văn hóa Trung Hoa được khơi dậy thông qua những biểu tượng đậm chất văn hóa nhưng chúng không bao giờ là sự quay về tuyệt đối với những nguyên mẫu cổ xưa. “Linh Sơn” như là một biểu tượng của sự tích hợp văn hóa vừa thể hiện một phong cách hiện đại lại vừa đậm chất truyền thống, đã chứng minh một chân lí bất di bất dịch là truyền thống văn hóa, cội nguồn dân tộc không ở ngoài chúng ta mà luôn phảng phất trong trí óc của chúng ta, trở về với cội nguồn là tìm về với bản ngã tâm linh của mình. Có lẽ chính vì lẽ đó mà tác phẩm của Cao Hành Kiện sống mãi trong lòng bạn đọc.
-----------------------------------

Nguồn: Tác giả gửi đăng (bài đã được đăng trên Tạp chí văn học nước ngoài)

CHÚ THÍCH:
1.     Guy Schoeller- Jean Cherailier & Alain gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng và trường viết văn Nguyễn Du, 1997.
2.     Phạm Văn Tuấn, “Cao Hành Kiện”, Vietsciences,nguồn http://vietsciences.free.fr va http://vietsciences.net
3.     “Không có chủ nghĩa” (Bài phát biểu của Cao Hành Kiện tại hội nghị 40 năm văn học Trung Quốc do Hệ thống Liên hiệp báo tổ chức tại Đài Loan), Paris, ngày 15-11-1993), Nguyễn Tiến Văn dịch.
4.     Cao Hành Kiện, “Sơ khảo kĩ thuật tiểu thuyết”, mục 7: trừu tượng, Lê Thời Tân – Nguyễn Thị Ngà dịch từ nguyên tác tiếng Hán.
5.     “Thông cáo của viện Hàn Lâm Thụy Điển ngày 12-10-2000” (Hàn Lâm Viện Thụy Điển, Ban thư ký thường trực), Đặng Tiến dịch từ bản tiếng Pháp.
6.     Linh Sơn(người dịch: Trần Đĩnh), Nxb phụ nữ, Hà Nội, 2002, tr.11, 12, 680.

7.     “Cao Hành Kiện - hành trình một ngày dài”, Leslie Triệu, Thường Quán dịch, nguồn: The Australian Review of Books, số tháng 12 năm 2000.

Đăng nhận xét