Search Suggest

PHÂN TÍCH XUNG ĐỘT KỊCH TRONG VỞ NHẠC KỊCH "CATS"



(Trích đoạn vở nhạc kịch Cats)
Nhắc đến kịch, là nhắc đến xung đột kịch. Đối tượng phản ánh của kịch chính là những xung đột của đời sống.[1] Theo Từ điển thuật ngữ văn học[2](Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên), mâu thuẫn (tiếng Pháp: conflit) là sự đối lập, sự mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng của tác phẩm nghệ thuật. Các xung đột thường xuất hiện dưới dạng những va chạm, tức là những đụng độ trực tiếp, sự chống đối giữa các thể lực được mô tả trong tác phẩm:  giữa tính cách với hoàn cảnh, giữa các tính cách với nhau, giữa những phương diện khác nhau của một tính cách…
Vở nhạc kịch Cats có ba xung đột chính, trong đó có hai xung đột trực tiếp thể hiện ở các tuyến nhân vật đối lập: Xung đột giữa Old Deteuronomy (và đàn mèo) – Macavity; xung đột giữa Grizabella và bầy đàn; bên cạnh đó còn một xung đột ngầm, xung đột tiềm ẩn mà bất kì một nhân vật nào trong vở kịch cũng đã, đang và sẽ phải trải qua, đó là xung đột giữa cái hữu hạn của cuộc đời và cái vô hạn của thời gian.
Cats là vở nhạc kịch nổi tiếng của sân khấu Broadway được dựng bởi Andrew Lloyd Webber, dựa trên tập thơ viết cho thiếu nhi của T. S. Eliot tên là “Old Possum’s Book of  Practical Cats”. Tập thơ của Eliot là một tập thơ tự sự có tính chất ngụ ngôn, mỗi bài thơ là một câu chuyện về một nhân vật mèo, qua đó cả trẻ em và người lớn đều có thể rút ra được những bài học cuộc sống cho riêng mình. Cats cũng kế thừa tinh thần ấy, sự sắp xếp các xung đột của vở kịch cũng là sự đan xen giữa các xung đột giản đơn đến những xung đột phức tạp, từ những xung đột hiện hữu trực tiếp đến những xung đột tiềm ẩn.
Xung đột giữa Old Deteuronomy và Macavity có thể xem là xung đột giữa hai thế lực chính diện-phản diện, là cuộc đối đầu giữa thiện – ác, xung đột có tính chất motif quen thuộc trong các tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, từ các tác phẩm văn học dân gian cho đến tiểu thuyết fantasy.
Xung đột đó thể hiện trước hết qua tạo hình của nhân vật. Sự mô tả các nhân vật trong Cats tuân theo trung thành với tập thơ của T.S. Eliot. Đầu tiên là sự xuất hiện của Old Deteuronomy:

Old Deuteronomy's lived a long time;
He's a Cat who has lived many lives in succession.
He was famous in proverb and famous in rhyme
A long while before Queen Victoria's accession.
Old Deuteronomy's buried nine wives
And more--I am tempted to say, ninety-nine;
And his numerous progeny prospers and thrives
And the village is proud of him in his decline.
At the sight of that placid and bland physiognomy,
When he sits in the sun on the vicarage wall,
The Oldest Inhabitant croaks:  "Well, of all . . .
Things. . . Can it be . . . really! . . . No!. . . Yes!. . .
Ho! hi!
Oh, my eye!
My mind may be wandering, but I confess
I believe it is Old Deuteronomy!"
Old Deuteronomy hiện lên là một nhân vật thịnh vượng, nổi tiếng, lỗi lạc, được mọi người yêu quý. Trong Cats, đây là nhân vật quan trọng của bầy mèo, là thủ lĩnh của chúng, là người đưa ra Jellicle’s choice quyết định xem con mèo nào sẽ đến được heaviside layer để được tái sinh. Khi nhân vật Old Deuteronomy xuất hiện, bầu không khí của vở kịch trở nên sôi nổi, vui tươi, và các nhân vật khác bắt đầu hát ca khúc rộn ràng về ông. Trong vở kịch Old Deuteronomy thể hiện là một tính cách trầm ngâm, uyên bác, công bằng. Tạo hình của ông trong vở kịch là một chú mèo già to lớn phúc hậu, đầy thiện cảm.
Trái ngược với Deuteronomy là Macavity. Nhân vật Macavity là một con mèo bí ẩn, là Napoleon trong thế giới tội phạm. Trong Bài thơ Macavity's a Mystery Cat, cụm từ “Macavity ‘s not here” được nhắc lại 5 lần nhằm nhấn mạnh tính chất kì bí, thoắt ẩn, thoắt hiện của nhân vật này. Trong vở kịch, Webber đã sử dụng thủ pháp trì hoãn để tăng thêm phần bí ẩn của Macavity, sau hai lần các nhân vật khác lầm tưởng Macavity xuất hiện (với gương mặt sợ hãi), đến lần thứ ba Macavity mới thực sự xuất hiện. Mỗi lần như vậy đều có những hiệu ứng không gian gây sợ hãi (tiếng còi xe cảnh sát, tiếng sấm sét…).
Chúng ta có thể thấy rõ sự tương phản của hai nhân vật trên qua bảng sau :

Bảng : SỰ TƯƠNG PHẢN CỦA DETEURONOMY VÀ MACAVITY

Đặc điểm
Old Deteuronomy
Macavity
Tạo hình
Con mèo to già to lớn, phúc hậu, gây thiện cảm.
Con mèo vằn bụng trắng hung dữ, thô kệch, xù xì, mái tóc đỏ rối, có những móng vuốt sắc nhọn, gây ác cảm.
Tính cách
Thông thái, trầm tĩnh, công bằng
Hung hăng, xảo quyệt, dữ tợn.
Không khí vở kịch khi nhân vật xuất hiện
Vui tươi, sôi nổi.
Căng thẳng, nghẹt thở. Sử dụng thủ pháp trì hoãn để làm tăng thêm mức độ đáng sợ của nhân vật.
Hình ảnh biểu tượng : Tờ lệnh truy nã « Wanted for everything » gợi ra đây là một nhân vật nguy hiểm.
Thái độ của các nhân vật khác
Quý trọng, vui mừng khi nhân vật xuất hiện.
Hoảng hốt, sợ hãi. (Nhất là Demeter)
Hành động
Ra quyết định xem ai sẽ là  Jellicle ‘s choice 
Bắt cóc – giả dạng Old Deteuronomy, bắt cóc Demeter
Tính chất nhân vật
Lãnh đạo của đàn mèo
ð Nhân vật chính diện
Napoleon của giới tội phạm
ð Nhân vật phản diện

Như vậy có thể thấy, xung đột giữa Deteuronomy và Macavity chính là xung đột giữa thiện và ác, và chiến thắng tất yếu thuộc về cái thiện, đây là motif quen thuộc và chắc chắn được các khán giả nhí mong đợi.
Tuyến xung đột thứ hai của tác phẩm chính là xung đột giữa Grizabella và đàn mèo. Nhân vật Grizabella không xuất hiện trong tuyển tập thơ của T.S Eliot, có quan điểm cho rằng đây là phiên bản mèo của người phụ nữ trong bài thơ « Rhapsody on a windy night ». Grizabella xuất hiện trong một bài thơ T.S Eliot viết cho những đứa con đỡ đầu của mình, ban đầu định đưa vào tập « Old Possum’s Book of Practical Cats », nhưng như T.S. Eliot nhận xét, đây là một nhân vật « quá buồn cho trẻ em ». Vợ thứ hai của T.S Eliot, vào năm 1980 tại buổi hòa nhạc trong khuôn khổ Sydmonton Festival, đã giao cho Webber một bản nháp của T.S. Eliot phác thảo về Grizabella. Từ đó Webber và đạo diễn của mình đã phát triển nhân vật thành yếu tố chính trong cốt truyện của vở kịch.[3]
Về tạo hình, Grizabella là một cô mèo khá lớn tuổi, thân hình rệu rã, tàn tạ, gương mặt khắc khổ, ánh mắt buồn thăm thẳm. Mặc dù tạo hình của cô không quá lớn tuổi nhưng những bước chân của cô rệu rã, chậm chạp, đây là dấu hiệu của việc Grizabella đã phải gánh chịu những vết thương.
Grizabella bị cả đàn xa lánh, khi cả đàn đang hát hay đang múa, chỉ cần Grizabella xuất hiện là tất cả sẽ im bặt và tránh đi, những con mèo con muốn tìm đến để hiểu cô, nhưng bị những con mèo lớn hơn ngăn cản. Có những con mèo khác thì cào cô, xúc phạm cô. Grizabella hiện lên là một số phận đáng thương, tội nghiệp, hoàn toàn cô độc, bị đồng loại của mình chối bỏ.
Số phận của Grizabella được dựng lên chủ yếu qua ca khúc « Grizabella the Glamour Cat ». Có nhiều cách diễn giải từ lời của ca khúc này. Có ý kiến cho rằng, Grizabella từng hành nghề mại dâm[4](tuy nhiên không khẳng định đó có phải là lí do Grizabella bị cả đàn xa lánh hay không, hay chỉ đơn thuần là một phần trong quá khứ của cô). Cách diễn giải khác cho rằng Grizabella trong quá khứ đã tách bỏ đàn của mình để khám phá thế giới rộng lớn (The No man’s land), dẫu biết rằng cái giá phải trả có thể bị cả đàn chối bỏ và không bao giờ được quay trở lại đàn của mình[5]. Theo cá nhân người viết, ý kiến thứ hai có cơ sở hơn.
Dựa vào cách diễn giải thứ hai về Grizabella, chúng ta có thể thấy ở đây xuất hiện một xung đột kịch : xung đột giữa Grizabella và đàn Jellicle cat chính là xung đột giữa nguyện vọng của cá nhân và nguyện vọng của tập thể, xung đột giữa đổi thay mới mẻ và truyền thống cố định, xung đột giữa khát khao khám phá rộng lớn và việc bị bó gọn trong một nơi chốn chật hẹp, xung đột giữa bản năng mạo hiểm và mong muốn được bình yên, cố định.
Trong vở kịch, đàn mèo Jellicle hiện lên là một tập thể khá ổn định, có tính truyền thống cao với những thành viên kì cựu, trụ cột. Sự ổn định, ít thay đổi của bầy mèo này thể hiện rõ nhất qua đêm vũ hội The Jellicle’s ball, được tổ chức mỗi năm một lần. Nửa đầu của vở nhạc kịch là sự xuất hiện của rất nhiều nhân vật có tính chất kì cựu của đàn, mỗi nhân vật như Jennyanydots, Rum Tum Tuggle… xuất hiện đều được các nhân vật khác ngóng chờ, vui mừng chào đón. Những nhân vật này là những « nhân tố truyền thống » của đàn, bên cạnh các nhân tố mới là những con mèo con được sinh ra. Không gian diễn ra của The Jellicle ‘s ball cũng cố định từ đầu đến cuối vở diễn, đó là một bãi phế liệu bỏ không chật hẹp, tù túng. Các nhân vật xuất hiện trong vở kịch (trừ kẻ phản loạn Macavity), dù có tính cách, số phận rất khác biệt nhưng đều là một phần của đàn, chấp nhận những quy tắc của đàn.
Như vậy rõ ràng, quyết định khám phá thế giới rộng lớn hơn của Grizabella hoàn toàn trái ngược với bản chất truyền thống, cố định, ít đổi thay của toàn bộ bầy đàn. Hành vi đó được xem như là chối bỏ đàn, và không thể tha thứ. Quyết định của Grizabella thời trẻ phần nào là chính đáng, nó thể hiện khát khao rất con người, đó là khát khao hiểu biết, khát khao khám phá, khát khao thoát khỏi không gian thực tại tù túng để vươn tới những chân trời mới, để mở rộng tầm mắt, để trải nghiệm. Có điều, quyết định đó, khát vọng đó cũng giống như đánh cuộc với ván bài số phận. Quyết tâm ra đi để thỏa mãn khát khao, đồng nghĩa với việc bị cả đàn vứt bỏ. Ở lại với bầy đàn chấp nhận cuộc sống bình yên, tĩnh tại, đồng nghĩa với việc chấp nhận cả đời gò bó. Đâu là câu trả lời cho bài toán này ? Mạo hiểm hay yên bình, sống một cuộc đời thú vị đầy biến cố hay một cuộc đời bình yên, tĩnh lặng ? Thời gian rồi sẽ cho ta một câu trả lời. Nhưng nghịch lý của thời gian đôi khi thật tàn nhẫn : Khi câu trả lời tới, có khi đã quá muộn để làm lại từ đầu. Tình cảnh của Grizabella ở đây cũng như thế, trong ván bài số phận, cô đã thua. Quyết định tuổi trẻ đã mang đến cho cuộc đời cô nhiều cay đắng. Và giờ đây, khi ở bên kia dốc cuộc đời, cô hối lỗi, muốn quay trở về, muốn được tha thứ, thì lại bị đàn của mình cự tuyệt. Tình cảnh của Grizabella, không ít người trong chúng ta đã gặp phải. Tuổi trẻ hăm hở với biết bao ước mơ, hoài bão, mà không biết được cái giá phải trả là gì, hay đến khi trả giá thì thấy rằng cái giá ấy quá đắt. Raxun Gamzatop, trong một bài thơ tám câu của mình, cũng đã bày tỏ :
“Con chim vừa đủ lông
Đã vội vàng bay đi, rời tổ.
Và con người không ít khi đâu đó
Chôn xác mình nơi rất xa quê hương.
Chúng ta sống và khao khát lên đường.
Luôn đuổi theo ước mơ - cứ thế
Chúng ta chết như con chim non trẻ
Chết dọc đường vì đuối sức khi bay.”[6]
Cái giá phải trả của Grizabella quả thực rất đau đớn: Đó là sự cô độc, bị đồng loại của mình xa lánh, cô lập. Cô đã đau đớn bày tỏ tình cảnh đáng thương cô quạnh của mình trong ca khúc đầy xúc cảm Memory:
Silence - not a sound from the pavement
Has the moon lost her memory
She is smiling alone
In the lamplight the withered leaves collect at my feet
And the wind begins to moan
Every street lamp seems to beat a fatalistic warning
Someone mutters and the streetlamp gutters
And soon it will be morning
Sự cô độc là cái lặng thinh tuyệt đối của màn đêm, sự cô độc là ánh trăng bàng bạc, là nàng trăng mất trí tự cười cùng nỗi cô đơn, là những chiếc lá úa theo từng bước chân đi, là tiếng rền rĩ của gió,là mỗi ánh đèn đường như điểm nhịp lời cảnh báo của số phận, một đêm trôi qua và một ngày lại tới, vẫn chỉ một mình.
Memory - all alone in the moonlight
I can smile at the old days
I was beautiful then
I remember the time I knew what happiness was
Let the memory live again
Sự cô độc, là khi hạnh phúc chỉ còn tồn tại ở quá khứ, niềm vui, sắc đẹp, tiếng cười… đều chỉ là bóng ánh của một thời đã qua, chỉ tồn tại như những bóng ma trong hoài niệm.
Có những lúc, nỗi đau ấy như vỡ òa, như thổn thức:
Touch me
It's so easy to leave me
All alone with my memory
Of my days in the sun

Rất dễ để rời bỏ, rất dễ để quay lưng, rất dễ để một con người cô độc trước đồng loại của mình.
Dáng vẻ tàn tạ, ánh mắt buồn đau sâu thẳm, từng bước chân đau đớn rệu rã, Grizabella bước ra giữa sân khấu, khát lên khúc hát về cuộc đời mình. Bài hát có sức ám ảnh sâu sắc, có sức lay động mạnh mẽ. Xung đột thứ hai của vở kịch gợi cho người xem sự cảm thương sâu sắc đến số phận nhân vật, gợi nhiều suy nghĩ về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, về những ván bài của số phận – những sự lựa chọn của cuộc đời.
Xung đột kịch là một khái niệm có nội hàm khá phong phú. Theo cách hiểu thông thường, xung đột kịch là những đối chọi gay gắt giữa các giá trị, các tuyến nhân vật, các nét tính cách trong một nhân vật…, tức là xung đột kịch có thể nhận biết trực tiếp thông qua cốt truyện, thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật – nhưng điều xảy ra trực diện trên sâu khấu và có thể nhận biết được bằng các giác quan. Chúng ta có thể điểm qua một vài xung đột: Xung đột giữa tình yêu và thù hận trong Romeo và Julliete, vở Vũ Như Tô (Nguyễn Huy Tưởng) có hai xung đột chính là xung đột giai cấp và xung đột giữa nghệ thuật và đời sống, vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) qua đối thoại giữa hồn và xác đã thể hiện những đối cực tốt xấu, cao cả-đê hèn, phần con-phần người trong mỗi con người…
Tất cả những xung đột đó được coi là xung đột trực tiếp, có thể nhận biết ngay trên bề mặt của tác phẩm. Nhưng bên cạnh đó, xung đột kịch còn có thể là những xung đột “ngầm”, nó không thể hiện rõ ràng trên cốt truyện, hành động, lời nói của nhân vật, nhưng nó tồn tại song song cùng cốt truyện, mở đầu truyện nó đã tồn tại, kết thúc truyện nó vẫn chưa được giải quyết. Loại xung đột kịch này được thấy trong kịch của A.Trekhov, khi được xây dựng với hai nguyên tắc chính là nguyên tắc giảm thiểu và giải thể cốt truyệnnguyên lý bi kịch đời thường.
Giáo trình “Lịch sử văn học Nga thế kỉ XIX” (Phạm Thị Phương, NXB Đại học Sư phạm TP. HCM) đã nhận định: “Trong các vở kịch của ông (A. Trekhov), ta thấy các nhân vật đi lại, nói chuyện thời tiết, đánh bài, ăn uống. Họa hoằn cũng có một sự kiện xáo động như một tiếng súng, một vụ làm ăn thua lỗ, nhưng tất cả đều diễn ra sau cánh gà sân khấu, dường như chả tác động lắm đến diến tiến bình lặng của dòng đời. Nhà viết kịch Trekhov xác định: “Trong cuộc sống, không phải lúc nào người ta cũng tự tử bằng súng, cũng treo cổ hay thổ lộ tình yêu với nhau. Và không phải lúc nào người ta cũng nói những lời thông minh[…]. Hãy để cho trên sân khấu, mọi điều đều vừa rối rắm vừa đơn giản như cuộc sống. Người ta ăn trưa, chỉ ăn trưa như bao chuyện bình thường khác, mà trong khi đó hạnh phúc của họ có thể đang nhen nhóm, cuộc đời họ có thể đang tan vỡ”[7].
Như vậy, có thể thấy, đối với loại xung đột này, ta không bắt gặp những tuyến nhân vật đấu tranh với nhau, ta cũng không bắt gặp sự phân thân của một nhân cách như những đối cực đấu tranh gay gắt, ta không bắt gặp những cảnh chiến đấu bằng vũ khí hay những cuộc đấu trí căng thẳng, chúng tồn tại vô hình, tồn tại song song với sự sống của các nhân vật trên sân khấu, chúng tồn tại như là những quy luật khách quan vô hình của đời sống chi phối lên tất cả các nhân vật trong vở kịch, có thể nói một cách hình tượng, xung đột ngầm “chảy”, chúng “chảy” dưới sàn sân khấu, “chảy” trong không khí, “chảy” qua số phận của các nhân vật kịch, và thậm chí, “chảy” lên số phận của những khán giả đang xem vở kịch.
Vở Cats có một xung đột ngầm, đó là xung đột giữa sự hữu hạn của cuộc đời và sự vô hạn của thời gian vũ trụ. Cuộc đời quá ngắn ngủi, và tất cả đều cũng qua đi, những điều tốt đẹp thoáng chốc đã trở thành kỉ niệm, thành hồi ức, sắc đẹp, tuổi trẻ, tài năng, niềm vui, và rồi cả cuộc đời, tất cả đều sẽ biến mất, tất cả đều sẽ lùi vào thì quá khứ, trở thành một bóng ảnh xa vắng, lóe lên trong hồi tưởng và đau đáu trong những tâm hồn hoài niệm. Trong sự hữu hạn của đời người, thời gian vô hạn của vũ trụ mang tính chất lưỡng cực. Một mặt, nó mang tới tất cả: niềm vui, sự sống, một mặt khác, nó cũng dần lấy đi tất cả mà nó mang tới. Đây là một vấn đề có tính chất nhân loại, là một tư tưởng chúng ta có thể bắt gặp khá quen thuộc trong các tác phẩm văn học trên thế giới. Đó chính là tư tưởng “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” của Xuân Diệu, là quan niệm “Tất cả dòng sông đều chảy” trong tác phẩm cùng tên của Nancy Kato, đó cũng chính là chiếc nhẫn This too shall pass trong những câu chuyện về vua Solomon, chiếc nhẫn có thể làm kẻ cùng khổ quên đi đớn đau và kẻ đế vương đang vui cười cũng phải giật mình thinh lặng, và ta có thể bắt gặp nó trong nhiều tác phẩm khác nữa.
Xung đột này tồn tại trong tất cả các nhân vật của vở nhạc kịch, ngay cả với Old Deteuronomy (nhân vật được xem là có phép màu và bất tử). Tất cả các nhân vật mèo, dù trẻ, trưởng thành, già, đều phải nếm trải xung đột này ở những mức độ khác nhau, tuổi đời càng cao, xung đột càng lên đến đỉnh điểm, càng trở nên thấm thía.
Xung đột ấy lần đầu tiên được nhắc đến qua vở kịch trong lời trầm ngâm của Old Deuteronomy:
Jellicle Cats and Dogs all must
Pollicle Dogs and Cats all must
Like undertakers, come to dust!
(Tất cả mèo Jellicle và chó
Tất cả chó Pollicle và mèo
Cũng như những người lo tang lễ, đều phải trở thành cát bụi)
Đó là sự nhận thức đầy ám ảnh về cái hữu hạn của cuộc đời. Rồi tất cả sẽ trở về cát bụi. Ngay khi Old Deteuronomy nói những lời này, hiệu ứng âm thanh sấm sét nổi lên báo hiệu sự xuất hiện của Macavity, đồng thời cũng là một hiệu ứng khắc sâu, khiến lời nói có tính chất giống như một lời sấm truyền, một chân lý không thể phủ định.
Xung đột ngầm thể hiện rõ nét nhất qua hai nhân vật: Grizabella và Gus (chú mèo của rạp hát).
Grizabella, ngay từ cách đặt tên nhân vật, đã thể hiện xung đột ấy. Grizabella là sự lắp ghép giữa "grizzle", có hai nghĩa là “màu xám”, hoặc “tàn tạ”[8]; bella là “người đẹp”. Tên Grizabella có nghĩa là “người đẹp tàn tạ”, hoặc “người đẹp màu xám” – ngay từ trong ý nghĩa tên gọi đã thể hiện sự tương phản, đối chọi gay gắt.
Bài hát “Grizabella the Glamour Cat” góp phần thể hiện sâu hơn xung đột, đó là sự tương phản giữa danh hiệu Glamour Cat (cô mèo quyến rũ) và sự xây dựng chân dung của Grizabella:
Remark the cat
Who hesitates towards you
In the light of the door which opens on her like a grin
You see the border of her coat is torn, and stained with sand
And you see the corner of her eye twist like a crooked pin
She haunted many, a low resort
Near the grimy road of Tottenham Court
She flitted about the No Man's Land
From The Rising Sun, to The Friend at Hand
And the postman sighed as he scratched his head
You really had thought she'd ought to be dead
And who would ever suppose that that
Was Grizabella, the Glamour Cat?
Grizabella, the Glamour Cat
Grizabella, the Glamour Cat
Who would ever suppose that that
Was Grizabella the Glamour Cat
“Có ai có thể ngờ rằng, đó từng là Grizabella cô mèo quyến rũ”, câu hát ấy nhắc đi nhắc lại như khắc sâu vào sự tàn phá của thời gian lên cuộc đời của Grizabella, cũng như bất kì ai. Cô mèo già tàn tạ, lang thang với khóe mắt liếc sắc như những chiếc ghim, có ai ngờ được khi xưa chính là cô mèo quyến rũ (the Glamour Cat). Sức tàn phá của thời gian quá sức khắc nghiệt, khắc nghiệt đến đau lòng. Quá khứ hạnh phúc đối lập với thực tại khổ đau, và rồi tất cả đều qua đi thành cát bụi, đó cũng là một bi kịch của đời người.
Khán giả của Cats không thể nào quên được một Grizabella nấp ở phía sau bóng tối, với cái nhìn buồn thương lặng lẽ hướng về đồng loại của mình nhảy múa, ca hạt, họ không thể không thương cảm trước cái bóng lủi thủi của cô mỗi khi bước tới và bị đồng loại xua đuổi, trong chuỗi nhưng chi tiết thương tâm ấy, đáng buồn hơn cả có lẽ là đoạn Grizabella độc diễn trong màn đêm. Nét diễn xuất của diễn viên Elaine Paige[9] rất tinh tế, trong khoảnh khắc đã diễn tả được những cung bậc cảm xúc rất trái ngược trong nội tâm nhân vật: Diễn lại điệu múa ngày xưa khi còn ở trong đàn, khi còn thời tuổi trẻ, ánh mắt thoáng hiện lên niềm say mê vui thích, và rồi một cơn đau ở vai, và rồi một cơn đau ở hông, và rồi ngập đầy ánh mắt là nỗi buồn thăm thẳm của thực tại. Chỉ trong một khoảnh khắc, niềm vui – nỗi buồn, quá khứ - hiện tại, những đối cực ấy xung đột, đối lập nhau trong tâm hồn nhân vật. Có lẽ cũng vì vậy, trong bài hát Memory, danh từ hạnh phúc luôn được nhắc đến ở thì quá khứ:
Memory - all alone in the moonlight
I can smile at the old days
I was beautiful then
I remember the time I knew what happiness was
Let the memory live again
Nỗi buồn của hiện tại như một tấm gương lộn ngược biến những bóng ảnh của hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi tiếc thương da diết, tiếc thương vì tất cả đều đã qua, giơ tay nắm lấy mà mãi mãi ngoài tầm với.
Không phải ngẫu nhiên mà sau sự xuất hiện lần thứ hai của Grizabella, là sự xuất hiện của Gus –chú mèo rạp hát, nay đã già nua với đôi bàn tay run rẩy: Gus chính là nhân vật thứ hai thể hiện đậm nét xung đột ngầm của tác phẩm.
Gus là một chú mèo già, với dáng vẻ tội nghiệp, bị bệnh liệt (Từ gốc: palsy) nên tay luôn bị run rẩy. Thời hoàng kim của Gus là khi chú ta còn là một diễn viên nhà hát, tỏa sáng với nhiều vai diễn, đặc biệt là vai Growltiger (Nội dung lấy từ bài thơ Growltiger’s last stand). Gus là nhân vật đầu tiên được giới thiệu ở hồi II của vở kịch, ông và Jellylorum ôn lại sự nghiệp trong quá khứ của ông. Bằng chất giọng run rẩy yếu ớt của một ông già, Gus đã kể lại những tháng ngày ấy trong bài hát của mình. Kết thúc bài hát, ông nghẹn ngào, run rẩy, và bật khóc. Đó chính là cái yếu lòng của con người, yếu lòng của tuổi già trước sự nghiệt ngã của thời gian. Câu chuyện của Gus cũng buồn, nỗi buồn giống với Grizabella.
Và xung đột ấy, tấn bi kịch của cuộc đời con người, không chỉ dừng lại ở hai nhân vật Grizabella và Gus, mà như đã trình bày ở trên, tất cả các nhân vật trong vở kịch, và kể cả khán giả, người xem cũng đã, đang và sẽ chịu sự chi phối của xung đột giữa vô hạn của vũ trụ và hữu hạn của cuộc đời. Xung đột ngầm được mã hóa ẩn trong tác phẩm, không dễ nhận ra, nhưng một khi nhận ra và nhận thức được nó, người xem sẽ cảm thấy đồng cảm sâu sắc, và ám ảnh sâu sắc.
Trong các giai đoạn diễn tiến của xung đột kịch, khâu quan trọng nhất chính là giải quyết xung đột, đó là cơ sở để phân loại kịch cũng như là điểm mấu chốt thể hiện một cách cô đặc tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Nếu xung đột giải quyết được, đó là chính kịch. Nếu xung đột không có cách nào giải quyết ổn thỏa, mọi sự giải quyết đều dẫn tới sự hủy diệt của nhân vật chính, hay sự hủy hoại của các giá trị quan trọng, đó chính là bi kịch.
Với ba xung đột trong vở kịch, các tác giả kịch bản cũng đã đưa ra những cách giải quyết xung đột rất khác nhau.
Xung đột thứ nhất, xung đột giữa cái thiện và cái ác, xung đột được giải quyết triệt để bằng chiến thắng tất yếu của cái thiện trước cái ác. Macavity, trong cuộc giao tranh nảy lửa với đàn mèo, đã bị đàn mèo đánh bại. Deteuronomy được trả tự do thông qua phép ảo thuật của Mr.Mistofelees. (Cách giải quyết rất phù hợp với thị yếu và tầm nhận thức của khán giả nhỏ tuổi)
Xung đột thứ hai, xung đột giữa Grizabella và bầy đàn, cũng được giải quyết triệt để bằng lòng thương cảm và sự tha thứ của cả đàn. Cuối cùng khúc hát đau thương của Grizabella đã được đồng vọng, cả đàn đã chấp nhận và tha thứ cho cô. Cách giải quyết này đậm chất nhân văn, có tính giáo dục sâu sắc: Bất hạnh và sự cô độc chỉ có thể được giải quyết bởi lòng vị tha và tình yêu thương.
Xung đột thứ ba, xung đột ngầm, được giải quyết bằng Jellicle’s choice, Grizabella được chọn để đi đến Heaviside layer để được tái sinh, kết thúc cuộc đời đau khổ và có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cuộc tái sinh ấy được miêu tả:
Up, up, up past the Russell Hotel
Up, up, up, up to the Heaviside layer
Up, up, up past the Russell Hotel
Up, up, up, up to the Heaviside layer
Up, up, up past the Russell Hotel
Up, up, up, up to the Heaviside layer
Up, up, up past the Russell Hotel
Up, up, up, up to the Heaviside layer
Up, up, up past the Jellicle moon
Up, up, up, up to the Heaviside layer
Up, up, up past the Jellicle moon
Up, up, up, up to the Heaviside layer
The mystical divinity
Of unashamed felinity
Round the cathedral rang 'Vivat'
Life to the everlasting cat
Cả giai điệu bài hát lẫn lời thơ đều rất vui tươi, với những phép điệp liên tiếp. Cả đàn mèo vui mừng cho Grizabella cuối cùng đã được đến nơi hạnh phúc. Không gian kịch diễn ra tươi vui, nhẹ nhõm. Cách giải quyết xung đột giống như một lời an ủi có thể khiến ta nhẹ lòng.
Nhưng xét cho cùng thì, cách giải quyết xung đột này chưa triệt để. Sự lựa chọn tìm hạnh phúc ở một cuộc đời khác, thế giới khác phản ánh sự bế tắc trong cuộc sống hiện tại của con người. Có những thứ qua đi rồi không bao giờ có thể lấy lại. Heaviside Layer xét cho cùng chỉ là sự an ủi vỗ về con người, là một thế giới mơ ước không tưởng. Grizabella đã đến được nơi đó, nhưng cuộc đời hiện tại đầy rẫy khổ đau không thay đổi (với chút niềm an ủi nhỏ nhoi là tấm lòng giang rộng của đồng loại). Grizabella đã đến được Heaviside Layer, nhưng còn Gus, nhưng còn những nhân vật khác, nhưng còn chính chúng ta, khán giả của vở kịch, chúng ta tìm đâu ra được một Heaviside để được tái sinh, để sống cuộc đời khác? Và thời gian của chúng ta vẫn tích tắc tích tắc mất dần đi, những khoảnh khắc tốt đẹp của hiện tại cũng đang dần qua đi, và quá khứ của chúng ta với biết bao kỉ niệm, sẽ mãi mãi không bao giờ có thể lấy lại. Từng phút từng giờ, và ngay cả khi vở kịch kết thúc, thì xung đột thứ ba này vẫn còn mãi, nó theo từng khán giả về nhà, tiếp tục tiếp diễn trong cuộc đời của họ, đó là một sự thật cuộc sống, một câu hỏi mà bất kì con người nào cũng đang kiếm tìm lời giải đáp.
Như vậy, theo một cách nào đó, xung đột thứ ba này là một bi kịch, một bi kịch mang tính chất phổ quát, bi kịch chung cho cả loài người.
Kết lại, qua tìm hiểu về ba xung đột trong Cats, chúng ta có thể đi đến những nhận xét sau:
Cách xây dựng xung đột thể hiện tính đại chúng của vở kịch: Vở kịch hướng đến nhiều đối tượng khán giả, hướng tới nhiều độ tuổi, trình độ khác nhau với các thị hiếu khác nhau. Xung đột thứ nhất là xung đột có tính chất đơn giản, motif, quen thuộc, rất phù hợp với khán giả nhỏ tuổi và những người tìm đến vở kịch để thư giãn, không cần suy ngẫm nhiều. Xung đột thứ hai thỏa mãn hầu hết khán giả ở độ tuổi trưởng thành, nó khơi gợi ở họ lòng thương cảm với số phận con người. Xung đột thứ ba phức tạp và ám ảnh hơn cả, để nhìn ra nó cần có một kinh nghiệm lí luận nhất định, có thể làm thỏa mãn khán giá thuộc giới chuyên môn.
Các xung đột kịch thể hiện nội dung tư tưởng nhân văn sâu sắc: Nhiều tư tưởng nhân văn được đề ra: ước mơ chiến thắng của cái thiện với cái ác, lòng trắc ẩn, tình thương yêu con người, lòng vị tha… Xung đột thứ ba đã chạm đến vấn đề có tính chất nhân bản, một bi kịch phổ quát của loài người, gợi nhiều trăn trở, suy nghĩ, tạo nên dư ba sâu sắc, đầy ám ảnh cho vở kịch.


[1][1]Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2 bài “Một số thể loại văn học: kịch, nghị luận”
[2] Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, NXB Giáo dục Việt Nam
[3] Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Grizabella
[4] Nguồn: http://catsmusical.wikia.com/wiki/Grizabella
[5] Nguồn: “Another interpretation of Grizabella's past is that she left the Jellicle tribe to explore the outside world ("Grizabella the Glamour Cat"), despite knowing that she would never be allowed back in.” (Wikipedia)
[6] Thơ tám câu của Raxun Gamzatốp, Thái Bá Tân dịch.
[7] G.Ars (1995), “Hồi tưởng về Trekhov”, Nhà văn Nga bàn về lao động nghề văn, tập 3, Leningrad, tr.386.
[8]Nguyên văn: The name Grizabella is probably derived from "grizzle" which means either "grey" or "disheveled", and "bella" which means "beautiful". Hence "Grizabella"; "The grey beauty" or "the disheveled beauty". (Nguồn: wikipedia)
[9] Trong bản DVD Cats năm 1998

Đăng nhận xét