Search Suggest

Truyện không thể nghèo chi tiết...

Đề bài: "Truyện có thể có cốt truyện, có thể không có cốt truyện, nhưng không thể nghèo chi tiết. Nếu thế truyện sẽ như nước lã." (Nguyên Ngọc)

Em hiểu thế nào về nhận định trên. Hãy làm sáng tỏ qua một số tác phẩm yêu thích.

 

Bài làm

 


    Văn chương tồn tại để thực thi sứ mệnh giúp nhân loại nhìn thấy được những "rạng đông sáng ngời" ẩn giấu nơi ngõ ngách nào đó của cõi trần. Âm điệu của văn chương chính là hợp xướng của dàn đồng ca nhiệm màu về tình yêu thương chạm khẽ đến ngưỡng rung động vĩnh hằng, là tiếng hát ngân vang của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn, nơi người nghệ sĩ gửi gắm những bồi hồi, xao xuyến của một linh hồn đa cảm trước cuộc đời. Như Nguyên Ngọc từng quan niệm “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”. Những thiên chức văn chương mang trong mình quả thật cao cả, và để thực hiện được những thiên chức ấy, mỗi một tác phẩm văn chương cần rất nhiều yếu tố, mà cách riêng đối với các tác phẩm truyện chính là "chi tiết" được khéo léo xây dựng trong tác phẩm. Bởi thế, Nguyên Ngọc đã từng nhận định rằng: "Truyện có thể có cốt truyện, có thể không có cốt truyện, nhưng không thể nghèo chi tiết. Nếu thế truyện sẽ như nước lã."

 

Trước hết, phải nói Nguyên Ngọc quả rất tài tình và chí lý khi nhận định như thế. "Truyện có thể có cốt truyện, có thể không có cốt truyện" - có nghĩa là trong mỗi tác phẩm truyện, kể cả truyện dài hay ngắn, tiểu thuyết hay ngụ ngôn… có "cốt truyện" (- là hệ thống các sự kiện, tình huống truyện nòng cốt làm nên tác phẩm) hay không, đó cũng không phải là vấn đề quan trọng nhất, mà vấn đề quan trọng nhất là "chi tiết" - chi tiết nghệ thuật - là “các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng”. Các chi tiết trong mỗi tác phẩm truyện chính là tiêu điểm, căn nguyên của mỗi tác phẩm, vậy nên "không thể nghèo chi tiết" - các chi tiết trong tác phẩm truyện nghèo nàn, ít ỏi, xây dựng hời hợt, nếu không "truyện sẽ như nước lã" - sẽ nhạt nhẽo, vô vị, không gửi gắm đủ đầy những ý tứ, tư tưởng sâu sắc, không mang những ý nghĩa nhân văn, tác phẩm truyện sẽ không thể làm tròn thiên chức của văn chương. Qua đó, Nguyên Ngọc muốn khẳng định, đề cao vai trò của các chi tiết truyện. Đồng thời, nhận định ấy còn là yêu cầu sáng tác đối với mỗi "người cầm bút". Mỗi chi tiết phải được nhà văn chọn lọc kỹ lưỡng, gửi gắm tư tưởng, tình cảm, ý tứ giàu tính dồn nén, dư ba. Đó là một trong những yếu tố cấu thành nên tầm vóc của nhà văn trong tiềm thức người đọc, trong nền văn học.

 

"Truyện có thể có cốt truyện, có thể không có cốt truyện, nhưng không thể nghèo chi tiết. Nếu thế truyện sẽ như nước lã." Quả thật xác đáng khi Nguyên Ngọc đưa ra nhận định ấy. Bởi lẽ, nếu như giai tiết tấu làm nên âm nhạc, đường nét sắc màu làm nên hội họa, cảm xúc hình ảnh làm nên thơ thì chi tiết làm nên truyện. "Chi tiết là lát cắt trên thân cây để thấy cả đời thảo mộc". Dù là truyện ngắn hay tiểu thuyết, cùng với nhân vật, tình huyễn truyện… chi tiết làm nên sức sống, thổi vào "cái hồn", gợi sức cuốn cho truyện, làm nên chiều sâu tác phẩm. Vì, chi tiết là nơi nhà văn khắc họa nổi bật tính cách nhân vật, nơi nhà văn gửi gắm nội dung tác phẩm, cả những tư tưởng, tình cảm lẫn ý tứ sâu xa, từ đó tạo cho truyện sức chứa lớn về tư tưởng. Chưa dừng lại ở đó, nói đến truyện là nói đến vấn đề xây dựng chi tiết. Vậy thử hỏi rằng, chẳng phải nếu chi tiết nghèo nàn, nhà văn xây dựng chi tiết hời hợt, cẩu thả, thì truyện sẽ trở nên vô vị, nhạt nhẽo, "như nước lã" hay sao?

 

"Nếu tình huống truyện tạo ra bước ngoặt của tác phẩm thì chi tiết nghệ thuật lại là cái bánh lái bẻ nên đường cua tuyệt diệu ấy." (Lêonit Leonov). Vâng, phải nói rằng, vấn đề xây dựng chi tiết là vấn đề chi tử cốt tử, vấn đề sống còn của tác phẩm. Trong truyện, mỗi chi tiết từ lớn đến nhỏ đều có một vai trò riêng, đặc biệt là trong truyện ngắn (- như một lát cắt của cuộc sống). Có những chi tiết vô cùng quan trọng, chi tiết thắt nút gây cấn, chi tiết mở nút khéo léo…bộc lộ hết thảy chiều sâu tư tưởng, hàm ý sâu xa, thông điệp ý nghĩa nhà văn muốn gửi gắm… Đó là những "chi tiết lớn".

 

Bên cạnh đó, cũng có những "chi tiết nhỏ" - những chi tiết không ngay lập tức gây ấn tượng với người đọc, dễ bị lướt qua thế nhưng không thể coi thường, như M.Gorki từng nhận định: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn". Chi tiết dù nhỏ cũng có ý nghĩa nhất định trong việc khắc họa tính cách, số phận nhân vật, gửi gắm thông điệp, tư tưởng của nhà văn. Không có nó, ắt sẽ không có cái tròn đầy, vẹn nguyên của một tác phẩm truyện - và tất nhiên, cũng không có "nhà văn lớn". Đồng quan điểm ấy, Pauxtopxki cũng từng cho rằng: "Chi tiết nhỏ là bụi vàng của tác phẩm".

 

 Như vậy, "chi tiết" là quá trình lao động cật lực, tận tâm, bằng cả khối óc và trái tim của người nghệ sĩ, là kết quả sự lựa chọn, sắp xếp, tư duy, sáng tạo của nhà văn. Nhà văn phải có tài thì chi tiết mới đặc sắc, không nghèo nàn, nhà văn phải có tâm thì chi tiết mới "lắng ở ô nề", "đọng ở bề sâu". Có như thế, tác phẩm mới không "như nước lã", mới gửi gắm những ý tứ, tư tưởng, thông điệp sâu xa.

 

Rõ ràng, vai trò của chi tiết trong tác phẩm truyện là vô cùng quan trọng, nhận định của Nguyên Ngọc là vô cùng đúng đắn. Lời khẳng định ấy vậy là định hướng đối với người sáng tác trong quá trình sáng tạo văn chương, vừa là lời nhắn gửi đến người đọc: Hãy biết trân trọng, nâng niu, thích thú khi thấu hiểu, cảm nhận, giải mã những ý nghĩa sâu xa của các chi tiết nghệ thuật trong truyện, dù là chi tiết lớn hay nhỏ đi chăng nữa!

 

Tự cổ chí kim của văn chương, ngay từ những tác phẩm văn học trung đại, ta đã thấy được tài - tâm của người nghệ sĩ trong vấn đề xây dựng chi tiết cũng như vai trò của chi tiết trong mỗi tác phẩm truyện. Phải kể đến trước tiên chính là tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" - Nguyễn Dữ với chi tiết "cái bóng" - là nguồn cơn của mọi bi kịch trong cuộc đời Vũ Nương, ở đó còn kết tinh giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm. Chi tiết ấy là chi tiết Vũ Nương chỉ vào bóng mình trên vách tường mà nói với bé Đản đó là cha nó, tức là chồng nàng. Chi tiết chính là biểu tượng cho tình yêu chồng của nàng, đó là sự đồng nhất giữa nàng với phu quân, là sự gắn bó, giao hòa giữa hai tâm hồn. Nguyễn Du từng viết: "Trăm năm tàn một chữ đồng đến xương". Phải chăng, chi tiết lấy bóng mình mà nói đó là chồng của Vũ Nương thực ra chính là cách nói sơn cùng thủy tận quy về chữ "đồng" trong đạo vợ chồng? Qua đó, thể hiện rõ nét tình cảm vợ chồng son sắt, gắn bó thủy chung của nàng với Trương Sinh. Chưa dừng lại ở đó, chi tiết ấy còn là biểu tượng cho tình mẫu tử của nàng với con. Có yêu thương con vô bờ bền thì nàng mới khổ tâm nét nỗi nhớ thương trong lòng mình định lên một hình ảnh người cha để tâm hồn con trẻ không tổn thương, không cảm thấy trống vắng khi thiếu tình phụ tử thuở còn bé thơ. Như vậy, chi tiết Vũ Nương chỉ vào bóng mình nói đó là chồng nàng, là cha của con nàng là một chi tiết lớn, vừa mang giá trị nhân đạo, như xoa dịu nỗi nhớ thương, lắng lo khắc khoải của nàng cho Trương Sinh "nơi hòn tên mũi đạn", vừa đóng vai trò quan trọng trong việc khắc họa chân dung đầy đức hạnh của Vũ Nương với tình yêu chồng, thủy chung son sắt, tình yêu thương con thiết tha. Để rồi qua đó, bức tượng đài nhân vật với những phẩm chất cao đẹp được tạc nên, giá trị nhân đạo của tác phẩm được khơi dậy, cái tâm của Nguyễn Dữ trở nên sâu sắc hơn. Vậy thử hỏi rằng, nếu "Chuyện người con gái Nam Xương" thiếu đi chi tiết ấy, liệu có còn đủ đầy giá trị nhân đạo, cái tâm của tác giả và nhân vật Vũ Nương liệu có còn đủ đầy, vẹn nguyên biết bao nhiêu phẩm hạnh quý giá kia? Như vậy, chẳng phải "truyện có thể có cốt truyện, có thể không có cốt truyện, nhưng không thể nghèo chi tiết. Nếu thế truyện sẽ như nước lã" hay sao?

 

   Vâng, "chi tiết là linh hồn của tác phẩm". Nếu ví tác phẩm truyện như một bông hoa hồng thì mỗi chi tiết lớn là những cánh hoa tươi thắm, mỗi chi tiết nhỏ là những nhụy hoa điểm xuyết để bông hồng thêm đẹp để, kiêu sa, thơm ngát. Ở tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, ta thấy rõ vai trò của chi tiết lớn đối với tư tưởng, thông điệp của cả tác phẩm, lẫn cái tâm, tài của chính tác giả. Bên cạnh đó, chi tiết nhỏ cũng đã góp phần làm nên "cái hồn" "lắng ở ô nề, đọng ở bề sâu" trong nhiều tác phẩm khác, mà điển hình là "Truyện Kiều" - kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, để rồi" trải bao gió dập sóng dồi/ tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha". Trong cả rừng chi tiết của thiên truyện này, tiểu tiết Mã Giám Sinh tìm đến để mua Kiều về làm vợ (như lời hắn nói) trong đoạn trích đặc sắc, thể hiện đậm nét giá trị hiện thực, mang tính tố cáo mạnh mẽ nhất tác phẩm "Mã Giám Sinh mua Kiều". Sau khi nghe mụ mỗi đánh tiếng, nghe được tin người con gái "nghiêng nước nghiêng thành" bán mình, Mã Giám Sinh đã tìm đến nhà Kiều. Sau sự xuất hiện ồn ào, phô trương, tiền hô, hậu ứng "Trước thầy sau tớ lao xao" là màn vấn danh đầy giả tạo. Hắn ta tự nhận là kẻ sĩ, từng theo học ở trường Quốc Tự Giám, chỉ nói họ, không xưng tên, ra vẻ kiểu cách, quý tộc. Y nói những lời "ong bướm, mĩ miều": "rằng mua ngọc đến Lam Kiều/sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường", rất dễ đánh lừa người ta. Song, Nguyễn Du đã khéo léo đan cài thêm một chi tiết nhỏ thôi, nhưng đủ vạch trần bộ mặt Mã Giám Sinh dối trá, và đủ cho thấy cái tài rất khéo của nhà văn. Ông để cho Mã Giám Sinh "đắn đo cân sắc cân tài" - hắn ta nhìn Kiều nhưng với một cái nhìn không chính trực, đường hoàng, không phải là cái nhìn của một chàng trai say đắm trước vẻ đẹp sắc nước hương trời của một cô gái. Lại còn để hắn "cò kè bớt một thêm hai" - vừa "cân sắc", "cân" tài Thúy Kiều, định lượng nàng như một món hàng, lại còn "cò kè", "bớt một thêm hai", trả giá để mua nàng. Thử hỏi rằng, một thư sinh nho nhã sẽ hành xử như thế sao? Chỉ một tiểu tiết cũng đủ lột mặt mạ "con buôn" của y rồi. Chân dung trơ trẽn, vô học, bất lương, mưu mô, xảo quyệt ấy đã được chỉ tiết nhỏ ấy khắc họa, giá trị hiện thực cũng đã được chi tiết nhỏ khéo léo hé mở sâu sắc, sinh động biết bao. Và phải nói rằng, nếu chi tiết nhỏ này chỉ được xây dựng hời hợt thì "truyện Kiều" ắt sẽ không trở thành kiệt tác, sẽ nhạt nhẽo, vô vị "như nước lã", thì làm sao đại thi hào Nguyễn Du có được thành công rực rỡ, chỗ đứng vững trãi trong nền văn học? Rõ ràng, qua đó, nhận định của Nguyên Ngọc lại một lần nữa trở nên xác đáng biết bao!

 

Không chỉ riêng các tác phẩm văn học trung đại, mà các tác phẩm văn học thời chống pháp nói riêng cũng như các thời khác nói chung đều là kết tinh của muôn chi tiết lớn, nhỏ, đóng vai trò quan trọng, là vấn đề sống còn của tác phẩm, như chi tiết bà chủ nhà trong "Làng" - Kim Lân trở nên vui vẻ, rạng rỡ khi nghe tin làng Chợ Dầu của ông Hai không theo Tây làm Việt gian. Bà chủ nhà vốn là một nhân vật phụ. Đọc tác phẩm, người đọc có lẽ sẽ không thể có thiện cảm với bà bởi sự đáo để và khó ưa, chua ngoa và đanh đá, tọc mạch và tham lam của bà. Song, khi đọc đến chi tiết: nghe tin ông Hai kể rằng làng mình không theo Tây, bà chỉ nhà vui vẻ, rạng rỡ hẳn lên, không còn đuổi ông bà Hai đi nữa… Chúng ta thấy, nhân vật phụ ấy đã hiện lên với một phẩm chất rất đáng quý qua tiểu tiết đó. Người phụ nữ vốn thế kia mà giờ đây sao yêu nước đến mãnh liệt, yêu kháng chiến đến tha thiết, hết mình vì cách mạng, ủng hộ cụ Hồ, ủng hộ đồng bào, chẳng thua kém gì ông Hai. Nghe lời tâm sự của bà ta mới  thấy rõ cái tình cảm thiêng liêng ấy: "A! Thế chứ! Thế mà tôi cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy…". Ghét Việt gian tức là và căm thù giặc và sẵn sàng chiến đấu chống giặc với tinh thần yêu nước sâu sắc. Rõ ràng, chỉ với một chi tiết nhỏ, Kim Lân đã giúp người đọc hiểu được đầy đủ chân dung nhân vật BÀ CHỦ NHÀ. Đồng thời góp phần thể hiện nội dung tác phẩm: ngoại ca tình cảm với đất nước, tinh thần kháng chiến của những người nông dân trong kháng chiến chống Pháp thời bấy giờ. Rõ ràng, chi tiết ấy nhỏ ấy giống như cơn gió nâng cánh diều bay cao bay xa, đã làm cho "Làng" trở nên sâu sắc hơn, tư tưởng của Kim Lân gửi gắm trở nên ý nghĩa hơn. Thật sự,, thử hỏi rằng, nếu các chi tiết này nghèo nàn, có phải thiên truyện này sẽ nhạt nhẽo "như nước lã" ?

 

"Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn"

("Lời mẹ dặn" - Phùng Quán)

 

Mỗi văn nhân hãy viết nên những tác phẩm truyện bằng chính cái tâm và cái tài, khối óc và cả trái tim, để tác phẩm kết tinh những chi tiết đặc sắc, dù lớn, dù nhỏ vẫn dư ba tư tưởng, thông điệp sâu xa, để các tác phẩm truyện ấy không phải là "nước lã" nhạt nhẽo, vô vị. Bên cạnh đó, người nghệ sĩ cần sống sâu với đời, thâm nhập cuộc sống, góp nhặt tinh túy của cuộc đời, "nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang" (Chế Lan Viên). Họ cũng cần phải có "thứ vân tay nghệ thuật" riêng biệt, phải sáng tạo để tạo ra các chi tiết khéo léo, tài tình nhất, độc đáo nhất, và hãy nhìn đời với con mắt "xanh non biếc rờn" để thực hiện thiên chức của nhà văn, của văn chương.

 

Để thưởng thức các tác phẩm, hiểu được ý tứ nhà văn gửi gắm qua các chi tiết nghệ thuật, dù chỉ là chi tiết nhỏ, người đọc cũng cần phải trau dồi vốn sống, sự hiểu biết văn chương để có khả năng giải mã chi tiết, tiếp nhận chiều sâu tác phẩm, có sự tương tác qua lại thật tốt giữa họ với người sáng tác, thì các giá trị của tác phẩm mới "bất hủ cổ kim".

 

"Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng" (CharlesDuBos). Văn chương quả thật có sức mạnh to lớn, hướng con người ta đến nhân tính, "Người" hơn, để con người biết "đi tìm cái đẹp trong ánh sáng" và quả thật, mỗi chi tiết trong các tác phẩm truyện đang góp phần quan trong vào thiên chức ấy, để văn chương len lỏi vào hồn người, sống ở đó, bén rễ, trổ hoa và tỏa hương. Vậy nên, nhận định của Nguyên Ngọc là vô cùng xác đáng, khẳng định vai trò không thể thiếu của chi tiết cũng như gửi gắm yêu cầu sáng tác đối với các văn nhân. Ta hãy đến với văn chương đế khám phá nhiều hơn những chi tiết nghệ thuật, những tư tưởng, thông điệp ý nghĩa, để cuộc sống thâm trầm, rộng rãi hơn, đủ nhanh để không hoài phí nhưng cũng đủ chậm để thưởng thức những vẻ đẹp của cuộc sống, bạn nhé!

 

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

LỚP 9/8

TRƯỜNG THCS TÂN SƠN

 

Đăng nhận xét